LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "một số giải pháp đối với công tác giám sát ngân hàng thuơng mại cổ phần chi nhánh bhtg khu vực hà nội": http://123doc.vn/document/1050764-mot-so-giai-phap-doi-voi-cong-tac-giam-sat-ngan-hang-thuong-mai-co-phan-chi-nhanh-bhtg-khu-vuc-ha-noi.htm
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
VIỆT NAM
1. Qúa trình hình thành và phát triển
Sau một thời gian dài nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm bởi chế độ “ tự cung,
tự cấp”, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thấy những hạn chế của chế độ này. Để
đưa đất nước phát triển theo kịp nhịp độ phát triển của thế giới, tại đại hội đảng lần
thứ VI đã chuyển đổi nền kinh tế từ “ tự cung, tự cấp” sang nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCH. Cùng với sự chuyển đổi đó,
hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đã bắt đầu triển khai kế hoạch đổi mới. Trong
giai đoạn này ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và niềm tin của dân
chúng đã bị giảm sút, đặc biệt là sau một loạt hợp tác xã tín dụng nông thôn và quỹ
tín dụng trên toàn quốc bị đổ vỡ dây chuyền trong thập niên 80 -90 của thế kỷ 20.
Để lấy lại niềm tin của quần chúng nhân dân, đề án thí điểm thành lập quỹ tín dụng
nhân dân theo quy định số 390/QĐ-TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ.
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với khoản tiền gửi có
kỳ hạn được ban hành kèm theo quyết định số 101/TCQĐ-BH của Bộ tài chính
ngày 1/2/1994. Theo quy định này Bảo Việt đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm tiền
gửi – Đây là sự khởi đầu hoạt động của bảo hiểm tiền gửi công khai tại Việt Nam.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam do Bảo Việt thực hiện phát triển chậm và bộc lộ
những hạn chế sau:
- Phí đóng bảo hiểm tiền gửi cho Bảo Việt chỉ có tác dụng để trả tiền gửi cho
người gửi khi quỹ tín dụng bị giải thể hoặc phá sản. Nhưng khi quỹ có nguy cơ mất
khả năng thanh toán thì lại không được hỗ trợ để hoạt động như bình thường.
Nguyên nhân là do Bảo Việt không quản lý, giám sát rủi ro thường xuyên.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
5
Giáo viên hướng dẫn:Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền
Bên cạnh đó, phí đóng góp lại trở thành nguồn tài chính của Bảo Việt mà không
còn là tài sản chung của hệ thống tín dụng nhân dân nữa. Theo cơ chế này thì
nguồn vốn đóng góp hàng tỉ đồng để mua bảo hiểm hàng năm đã “ không cánh mà
bay”. Chỉ khi nào tổ chức tín dụng bị xoá sổ thì người gửi tiền mới được đền bù.
- Tỷ lệ phí 0.165% số dư tiền gửi có kỳ hạn của mỗi quý là qúa cao chính vì
vậy đã khiến cho các quỹ tín dụng không muốn tham gia.
Hoạt động ngân hàng trong quy luật phát triển của kinh tế thị trường (tính cạnh
tranh cao…), lại gắn với những yếu tố rủi ro cao điều đó đặt ra yêu cầu cần phải có
hệ thống bảo hiểm tiền gửi nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Đặc
biệt, cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương năm 1997
tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, nhưng đã để lại cho Việt Nam nhiều
bài học về quản lý đối với lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Cùng với chính sách mở
cửa, quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới, sự tác động đối
với thị trường huy động vốn và tiêu thụ vốn trong nước cũng chịu sự tác động trực
tiếp.
Trước những thực trạng đó, ngày 1/9/1999 Chính phủ Nước CHXHCH Việt
Nam, Ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi. Ngày
9/11/1999 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg thành
lập bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Ngày 7/7/2000 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chính
thức khai trương đi vào hoạt động.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là tổ chức nhà nước, có tư cách pháp nhân, hạch
toán độc lập, có tài sản và con dấu riêng. Hoạt động theo điều lệ do Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Chế độ tiền gửi do
Thủ tướng Chính phủ quy định trên cơ sở đề nghị của ban tổ chức và ý kiến của
ngân hàng Nhà nước. Vốn điều lệ của công ty là 1000 tỷ đồng do ngân sách nhà
nước cung cấp với nguồn vốn bổ sung từ phí bảo hiểm hàng năm và các nguồn vốn
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
6
Giáo viên hướng dẫn:Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền
khác. Phí bảo hiểm được tính theo quý và được nộp vào cuối tháng của quý với tỷ
lệ là 0.15%/ năm. Nguồn vốn hình thành từ quỹ này tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ sử
dụng cho việc hỗ trợ khi có tổ chức tín dụng nào gặp khó khăn, khi có sự kiện bảo
hiẻm nào xảy ra và phần vốn nhàn rỗi được mang đi đầu tư theo luật định.
Như vậy, sự ra đời của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một bước tiến có ý nghĩa
quyết định trong nỗ lực của Chính phủ của ngành Ngân hàng nhằm hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý thể chế để bảo đảm cho hoạt động tín dụng Ngân hàng ở Việt
Nam có một môi trường minh bạch an toàn, hiệu quả theo gần những nguyên tắc và
thông lệ quốc tế. Năm năm qua mặc dù phải vừa làm vừa học hỏi kinh nghiệm để
xây dựng và trưởng thành nhưng Bảo hiểm tiền gửi đã có một vai trò quan trọng
đem lại niềm tin cho công chúng rộng rãi về những khoản tiền gửi của mình được
bảo hiểm tại tổ chức tín dụng Việt Nam. Đồng thời cũng giúp cho Tổ chức tín dụng
Việt Nam có thêm một chỗ dựa quan trọng nhằm triển khai các hoạt động của mình
một cách an toàn hơn, hiệu quả hơn, mặc dù chưa phải đã làm được nhiều trong
việc giải quyết các tổ chức tín dụng gặp khó khăn nhưng mà chỉ riêng việc Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam chi trả kịp thời cho những Quỹ tín dụng nhân dân bị thanh
lý, bị rút giấy phép đã đem lại sự ổn định về chính trị xã hội, niềm tin của người
dân đối với hoạt động tiền tệ tín dụng ở Việt Nam. Đẩy lùi dần tâm lý lo ngại về
hoạt động thiếu an toàn, thiếu bền vững của Tổ chức tín dụng và do đó tăng cường
hơn nữa việc huy động các nguồn lực trong xã hội vào các kênh tiền tệ, tài chính
ngân hàng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội và cải thiện đời sống của nhân
dân. Bảo hiển tiền gửi Việt Nam cũng đã hình thành được một mạng lưới tổ chức
các định, thiết chế hoạt động và đã vươn lên, sử dụng tốt các nguồn lực tài chính
hiện có, bảo tồn được vốn nhà nước giao, bảo tồn được quỹ đóng góp bảo hiểm của
các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm, chi trả và góp phần thanh lý tốt các Tổ
chức tín dụng bị thanh lý, đồng thời giám sát, kiểm tra tạo thêm một kênh thông tin
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
7
Giáo viên hướng dẫn:Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền
phối hợp với Ngân hàng Nhà Nước ở TW cũng như các chi nhánh địa phương để
làm cho hoạt động tiền tệ, tín dụng trở nên an toàn.Hơn nữa,Bảo hiểm tiền gửi đã
mở rộng mạng lưới hoạt động của mình tới các khu vực trong phạm vi cả nước, đó
là thành lập 6 chi nhánh BHTG khu vực gồm: Chi nhánh tại TP.HCM, chi nhánh
khu vực Hà Nội, chi nhánh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long( tại Cần Thơ, chi
nhánh khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (tại Nha Trang), chi nhánh khu vực
Đông Bắc Bộ ( tại Hải Phòng ) và chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ ( tại Nghệ An).
Đây là những địa bàn kinh tế trọng điểm của đất nước, đồng thời là nơi tập trung
nhiều tổ chức tài chính và TCTD.
2.Nội dung hoạt động chính
Thu phí bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
theo quy định;
Chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong phạm
vi mức bảo hiểm tối đa theo quy định;
Theo dõi giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định tại Nghị định
của Chính phủ về bảo hiềm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt
động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
Hỗ trợ cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có nguy cơ mất khả
năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc
biệt;
Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
bị phá sản;
Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách về
bảo hiểm tiền gửi;
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
8
Giáo viên hướng dẫn:Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền
Tuyên truyền về bảo hiểm tiền gửi đối với công chúng; tổ chức tập huấn,
đào tạo và tư vấn về nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tiền gửi;
Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng lực
hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và của các tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi;
Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được Thủ tướng Chính phủ giao
3. Các quy định của Chính Phủ về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
3.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
Đối tượng tham gia bảo hiểm là các tổ chức tín dụng ( bao gồm ngân hàng,
quỹ tín dụng…) trong đó các công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm cho trách nhiệm các
Tổ chức tín dụng với khoản tiền gửi của các cá nhân, tổ chức.
Mặc dù nhận bảo hiểm cho trách nhiệm của các Tổ chức tín dụng với các
khoản tiền gửi, song không phải tất cả các loại tiền gửi hoặc tất cả các đối tượng ,
các rủi ro xảy ra đều được công ty bảo hiểm thanh toán. Mà thông thường công ty
bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm trong các trường hợp thuộc phạm vi của mình. Cụ
thể như sau:
Trong bảo hiểm tiền gửi, các rủi ro sau được bảo hiểm:
Thứ nhất, đó là sự phá sản của Tổ chức tín dụng. Đây là trường hợp nghiêm trọng
nhất và đáng lo ngại nhất. Khi một Tổ chức tín dụng bị đặt trong tình trạng phá sản
có nghĩa là tổ chức đó không có khả năng trả nợ một cách đầy đủ hoặc không thể
tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình do bị thiếu vốn. Trong trường hợp này, các
công ty bảo hiểm sẽ đứng ra trả lại tiền gửi cho khách hàng theo quy định của pháp
luật; mặt khác các tài sản, công việc kinh doanh của các Tổ chức tín dụng sẽ được
bàn giao cho ban thanh lý các tài sản và thực hiện việc thanh lý theo quy định.
Thứ hai, sự giải thể bắt buộc của tổ chức tín dụng. Sự giải thể có thể là bắt buộc
hoặc tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
9
Giáo viên hướng dẫn:Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền
Sự giải thể bắt buộc xảy ra khi các Tổ chức tín dụng không tuân theo các quy tắc,
luật lệ do Nhà nước đặt ra hoặc các Tổ chức tín dụng từ chối thanh toán hoặc chỉ có
cách giải thể các chủ nợ mới thu hồi được tiền nên họ đề nghị Toà án ra lệnh tuyên
bố giải thể.
Còn sự giải thể tự nguyện xảy ra khi Tổ chức tín dụng bị đặt trong tình trạng có
nguy cơ dẫn đến phá sản. Tình trạng này là tình trạng Tổ chức tín dụng thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn sau khi áp dụng các biện pháp tài
chính cần thiết của Nhà nước mà đại diện là Toà án, các cổ đông của Tổ chức tín
dụng quyết định tuyên bố giải thể. Sau khi phân chia tài sản, các khoản tiền gửi có
kỳ hạn mà Tổ chức tín dụng không thanh toán hết thì tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có
trách nhiệm bồi thường cho người gửi tiền.
Thứ ba, Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay mất
khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng. Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có
thẩm quyền xét thấy quỹ mặc dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng đúng mục đích
đã đề ra, không muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lý quỹ không cho hoạt
động tiếp. Trong trường hợp này, bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho những
người gửi tiền có kỳ hạn nhưng sẽ được thế quyền để được hưởng số tiền thanh lý
tài sản hay đòi nợ.
Thứ tư, là do không thể thực hiện việc thanh toán cho người gửi tiền. Vì một lý do
nào đó mà Tổ chức tín dụng cố ý không thanh toán nợ và chủ nợ đệ đơn lên toà án
để có lệnh bắt buộc Tổ chức tín dụng phải tuyên bố phá sản hay thanh lý để trả nợ
cho các chủ nợ. Họ cho rằng có như vậy họ mới thu hồi được các khoản nợ của
mình. Lệnh của toà án được áp dụng khi:
- Tổ chức tín dụng không có phương án hoà giải hoặc có phương án tổ chức lại
hoạt động kinh doanh của mình theo yêu cầu của toà án.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
10
Giáo viên hướng dẫn:Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền
- Không tham gia Hội nghị chủ nợ để trình bày các phương án hoà giải và trình
bày các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh.
- Có tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các phương án nhưng trong qúa trình
tổ chức lại kinh doanh, Tổ chức tín dụng đã vi phạm nghiêm trọng những thoả
thuận tại hội nghị và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản.
- Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà tổ chức tín dụng vẫn kinh
doanh không hiệu quả.
Tuy nhiên trong Bảo hiểm tiền gửi cũng có những rủi ro loại trừ. Những rủi ro
loại trừ (không thuộc phạm vi bảo hiểm) là những rủi ro gây ra sụư phá sản, thanh
lý hay giải thể một Tổ chức tín dụng trong các trường hợp:
- Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán đã nêu trong
pháp lệnh ngân hàng của tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng có điều lệ và quy chế
hoạt động riêng nhưng cũng phải tuân thủ các quy định hiện hành khác của Nhà
nước. Nếu tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quuy định về tiền tệ, tín
dụng, thanh toán của ngân hàng dẫn đến phá sản thì bảo hiểm không bồi thường.
- Giải thể tự nguyện vì nguyên nhân:
+ Do cổ đông nhận thức thấy mục tiêu khi thành lập tổ chức tín dụng không đạt
được.
+ Do cổ đông muốn thu hồi lại vốn hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của tổ
chức tín dụng.
- Ngừng hoạt động do những nguyên nhân:
Tổ chức tín dụng ngừng hoạt động vì chiến tranh, đình công, bạo loạn dân sự, nội
chiến. Đây là những rủi ro loại trừ không thông thường, không liên quan đến hoạt
động kinh doanh tiền tệ. Khi tổ chức tín dụng bị phá sản, thanh lý, giải thể do các
rủi ro này bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm bồi thường cho những người gửi
tiền.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
11
Giáo viên hướng dẫn:Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền
Các quy định của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
* Căn cứ vào nghị định 89/NĐ-CP ngày 1/9/1999 thì đối tượng tham gia Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam với hình thức bắt buộc là tất cả các tổ chức tín dụng và tại
công văn số 109/2005 – NĐ-CP được bổ sung, sửa đổi một số điều của Nghị định
số 89/1999/NĐ-CP.
Hiện nay ở Việt Nam, các tổ chức tín dụng được phân làm hai loại là tổ chức tín
dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phí ngân hàng.
Các tổ chức tín dụng ngân hàng được phân theo các hình thức sau:
- Theo hình thức sở hữu:
+ Ngân hàng thương mại quốc doanh
+ Ngân hàng thương mại
+ Ngân hàng liên doanh
+ Ngân hàng nước ngoài
- Theo hình thức hoạt động có:
+ Ngân hàng công thương
+ Ngân hàng ngoại thương
+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
+ Ngân hàng Đầu tư & phát triển
+ Ngân hàng chính sách
Các quỹ tín dụng nhân dân gồm có:
+ Quỹ tín dụng nhân dân trung ương
+ Quỹ tín dụng nhân dân khu vực
+ Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm có:
+ Các công ty tài chính
+ Các công ty thuê tài chính
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
12
Giáo viên hướng dẫn:Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền
+ Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác
Như vậy,, tổ chức tín dụng cũng như các tổ chức không phải là tín dụng được
phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật tín dụng, hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam và có nhận tiền gửi bằng tiền Việt Nam đều là đối
tượng tham gia của Bảo hiểm tiền gửi.
* Điều 3 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về Bảo
hiểm tiền gửi quy định:
Tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi.
* Thông tư số 03/2000/TT-NHNN ngày 26/3/2000 của Ngân hàng Nhà nước
hướng dẫn thực hiện nghị định số 89/1999/NĐ-CP, hướng dẫn cụ thể hơn về đối
tượng tiền gửi được bảo hiểm gồm:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn bao gồm cả tiền gửi trên tài
khoản các nhân.
- Tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu ghi danh cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không bảo hiểm đối với các loại chứng chỉ tiền gửi
và trái phiếu vô danh do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành.
Mặc dù, đối tượng được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của những
người gửi tiền gửi tại tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi, trừ những trường hợp
sau:
- Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm
giữ trên 10% vốn cổ phần, có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi đó;
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
13
Giáo viên hướng dẫn:Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền
- Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên của hội đồng quản trị, ban kiểm soát,
tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc ( phó giám đốc ) của tổ chức tham
gia bảo hiểm;
- Tiền gửi dùng để đảm bảo nghĩa vụ của người gửi tiền;
- Tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của ngân
hàng Nhà nước Việt Nam;
3.2 Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm (STBH) là số dư tiền gửi trong báo cáo số dư tiền gửi mỗi quý
của tổ chức tín dụng.
Phí bảo hiểm là một trong những công cụ nhạy cảm của chính sách Bảo hiểm
tiền gửi ở mỗi quốc gia. Tuỳ theo mục tiêu thiết lập hệ thống Bảo hiểm tiền gửi là
hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận hay phi lợi nhuận mà định ra các mức phí khác
nhau. Nó có thể cao hơn, thấp hơn, thậm chí bằng chi phí và tổn thất mà Bảo hiểm
tiền gửi phải bỏ ra. Tuy nhiên, cơ chế xác định phí công bằng luôn là cơ sở quan
trọng để Bảo hiểm tiền gửi hoạt động có hiệu quả và phát triển bền vững.
Một số hệ thống Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới mà tiêu biểu là Mỹ, Canada, Nhật,
Đài Loan… đã vận dụng thành công phương pháp định phí bảo hiểm dựa trên
thông tin thị trường và thông tin đối kháng. Để phân tích ngwofi ta đã sử dụng mô
hình “ quyền chọn của Merton” hay mô hình “ tổn thất dự kiến”
Phí bảo hiểm chính là nguồn thu quan trọng góp phần bảo đảm cho sự tồn tại của
tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Do vậy, định phí chính xác phải đi đôi với thu phí có
hiệu quả. Thông thường phí bảo hiểm là số tiền tổ chức tín dụng phải trả cho công
ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm số dư tiền gửi của tổ chức tại thời
điểm cuối mỗi quý. Phí bảo hiểm mà tổ chức tín dụng trả cho người bảo hiểm theo
từng quý được tính theo công thức:
P = m x R/365 x G
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét