LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "nâng cao chất lượng gia công phần mềm ở việt nam và công ty cổ phần sao mai": http://123doc.vn/document/1049530-nang-cao-chat-luong-gia-cong-phan-mem-o-viet-nam-va-cong-ty-co-phan-sao-mai.htm
hành vi trong mua bán hàng hoá, thuê tài sản, mua tài sản, vận tải, đại lí, đại diện,
môi giới, bảo hiểm, hoạt động của các hội kinh doanh và công ty.
Có thể thấy rằng luật các nước không đưa ra một khái niệm nào về hành vi
thương mại song đã liệt kê khá chi tiết các hành vi được coi là hành vi thương mại
bao trùm hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế.
So với pháp luật thương mại các nước thì hành vi được coi là thương mại được
đề cập đến trong Luật thương mại 1997 Việt Nam có phạm vi hẹp hơn. Điều 5.1
Luật thương mại 1997 quy định: “ Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân
trong hoạt động thương mại làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân
với nhau hoặc giữa các thương nhân với các bên có liên quan.”
Điều 45 liệt kê các hành vi thương mại gồm 14 loại sau:
1. Mua bán hàng hoá
2. Đại diện cho thương nhân
3. Môi giới trong thương mại
4. Uỷ thác mua bán hàng hóa
5. Đại lí mua bán hàng hoá
6. Gia công trong thương mại
7. Đấu giá hàng hóa
8. Đấu thầu hàng hoá
9. Dịch vụ giao nhận hàng hoá
10. Dịch vụ giám định hàng hoá
11. Khuyến mại
12. Quảng cáo thương mại
13. Trưng bày, giới thiệu hàng hoá
14. Hội chợ, triển lãm thương mại
Như vậy, hành vi thương mại trong Luật thương mại 1997 gắn liền với thương
nhân, đó là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại, tuy nhiên vẫn còn
bị bó hẹp trong giới hạn 14 hành vi kể trên. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển,
các hành vi kinh doanh ngày càng xuất hiện phong phú và đa dạng nhưng không
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Chuyên đề thực tập - 6-
phải hành vi nào cũng được coi là hành vi thương mại. Muốn vậy chúng phải có
những đặc điểm sau đây:
• Hành vi đó phải là hành vi do thương nhân thực hiện.
Đây là đặc điểm cơ bản giúp phân biệt hành vi thương mại với các hành vi
khác. Đã là hành vi thương mại thì hành vi đó phải do thương nhân thực hiện.Một
hành vi dù có tính thương mại nhưng không do thương nhân thực hiện thì đó không
được coi là hành vi thương mại.
• Hành vi đó do thương nhân thực hiện trong hoạt động thương mại.
Nếu như đặc điểm trên chú trọng đến dấu hiệu chủ thể hành vi thì đặc điểm
dưới lại chú trọng tới tính thương mại của hành vi. Không phải mọi hành vi do
thương nhân thực hiện đều được xác định là hành vi thương mà chỉ những hành vi
do thương nhân thực hiện trong hoạt động thương mại mới được coi là hành vi
thương mại.
• Hành vi đó được thương nhân thực hiện với mục đích lợi nhuận hoặc nhằm
thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Bên cạnh mục đích lợi nhuận, hành vi thương mại còn có thể nhằm thực hiện
các chính sách kinh tế-xã hội. Điều này là do nền kinh tế thị trường của Việt Nam là
nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Vì vậy để quản lí nền kinh tế
theo định hướng của mình, Nhà nước vẫn phải sử dụng đến một lực lượng đáng kể
các thương nhân là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trên một số ngành, lĩnh vực
then chốt, quan trọng.Các thương nhân này, khi thực hiện các hành vi thương mại,
bên cạnh mục tiêu lợi nhuận vẫn còn phải hướng tới thực hiện các chính sách kinh
tế-xã hội do Nhà nước giao( Ví dụ: hoạt động của các công ty Môi Trường, Chiếu
sáng đô thị…)
1.3. Hoạt động thương mại
Điều 5.2 Luật thương mại 1997 quy định : “Hoạt động thương mại là việc
thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại
nhằm mục đích lợi nhuận, hoặc thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội”.
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Chuyên đề thực tập - 7-
Theo khái niệm trên, hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba nhóm hoạt động:
đó là các hoạt động mua bán hàng hoá, các hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại
( dịch vụ gắn liền với mua bán hàng hoá) và các hoạt động xúc tiến thương mại
( hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy quan hệ mua bán hàng hoá và cung ứng dịch
vụ thương mại).Sở dĩ hoạt động thương mại chỉ gồm ba nhóm kể trên là do xuất
phát từ quan niệm hành vi thương mại theo nghĩa hẹp, chỉ giới hạn trong 14 hành vi
mà chủ yếu là hành vi liên quan đến mua bán hàng hóa. Về điểm này các nước có
quy định rộng hơn, hoạt động thương mại bao gồm bốn lĩnh vực chủ yếu là thương
mại hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động có đầu tư liên quan đến thương mại và sở hữu
trí tuệ có liên quan đến thương mại.
1.4. Những đóng góp của Luật Thương mại 1997
Sau khi Luật Thương mại 1997 đi vào cuộc sống, Luật Thương mại Việt Nam
năm 1997 đã đạt được những thành tựu nhất định, ghi nhận một mốc quan trọng
trong thời kỳ dấu Việt Nam chuyển từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN. Luật Thương mại đã góp phần thể chế hoá đường lối đổi mới
và hội nhập của Đảng và Nhà nước, tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng hơn
cho hoạt động thương mại, đông thời tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho quá trình
Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành
tổng cộng 14 nghị định và hàng loạt các thông tư, văn bản khác của các ban ngành
hướng dẫn thi hành.
Qua Luật Thương mại, lần đầu tiên nghề “thương mại” của các chủ thể thương
nhân được ghi nhận là một nghề quan trọng trong xã hội và được pháp lý công
nhận, thương nhân được quyền bình đẳng trước pháp luật trong mọi hoạt động
thương mại, được quyền tự do cạnh tranh hợp pháp, đồng thời luật cũng góp phần
bảo đảm quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. Luật cũng quy định các mối
quan hệ thương mại với nước ngoài vì thế tạo ra nhiều thuận lợi cho DN trong việc
xuất nhập khẩu hàng hóa.
Nhờ Luật Thương mại, đến nay cả nước có hàng triệu hộ kinh doanh, hàng
vạn DN trong và ngoài quốc doanh tham gia xuất nhập khẩu. Luật Thương mại năm
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Chuyên đề thực tập - 8-
1997 cũng giúp khâu lưu thông hàng hóa nội địa được thuận tiện, góp phần không
nhỏ trong việc đưa giá trị lưu thông hàng hóa nội địa tăng lên hằng năm. Chỉ tính
riêng 6 tháng đầu năm 2003, giá trị hàng hóa lưu thông trong nước đạt 148 ngàn tỷ
đồng, dự kiến cả năm sẽ là 300 ngàn tỷ đồng; xuất khẩu 6 tháng đạt hơn 9,7 tỷ
USD, dự kiến cả năm sẽ đạt trên 19 tỷ USD, tăng 14% so năm 2002.
Theo ông Diệp Thành Kiệt, Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may TP. Hồ Chí Minh,
mặt tích cực của Luật Thương mại năm 1997 được thể hiện, với DN, thời gian đăng
ký kinh doanh được rút ngắn hơn, chỉ còn 15 ngày; với giao thương quốc tế, các DN
tham gia xuất khẩu tăng nhiều và có điều kiện hội nhập kinh tế thế giới; với nội
thương, hàng hóa được cân bằng giá cả ở thành thị và nông thôn, người dân vùng
sâu, vùng xa được có những sản phẩm như người thành thị
(1)
1.5. Mặt hạn chế
Không thể phủ nhận, Luật thương mại năm 1997 đã mang lại nhiều tiến bộ,
phát triển cho nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, đến nay luật này đã bộc lộ nhiều hạn
chế, một số quy định trở nên lạc hậu và không thích ứng với thông lệ thương mại
quốc tế, nhất là khi Việt Nam tham gia đàm phán song phương, đa phương về
thương mại với các tổ chức kinh tế, các quốc gia khác trên thế giới.
Theo Bộ Thương mại, hạn chế của Luật Thương mại hiện hành là khái niệm
thương mại còn được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm trong 14 hành vi thương
mại (mua, bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác
mua bán hàng hóa, đại lý mua bán hàng hóa, gia công trong thương mại, đấu giá
hàng hóa, dịch vụ giao nhận hàng hóa, dịch vụ giám định hàng hóa, khuyến mại,
quảng cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa, hội chợ - triển lãm thương
mại), trong khi các định chế quốc tế và pháp luật các nước lại hiểu thương mại theo
nghĩa rộng vượt quá 14 hành vi thương mại trên như: đầu tư, cấp vốn, ngân hàng,
bảo hiểm, hợp đồng khai thác hoặc đặc nhượng, giá trị quyền sử dụng đất, các
quyền về tài sản, cổ phiếu, trái phiếu, các hoạt động cung ứng, thuê bao dịch vụ
1(1
)
Báo kinh tế đối ngoại của Bộ thư ơng mại ( số 13 ngày 29/3/2005)
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Chuyên đề thực tập - 9-
Bà Hella Weeke, chuyên gia dự án Star tại Việt Nam cho biết, dù Việt Nam
công nhận công ước phán quyết của tòa án quốc tế trong tranh chấp thương mại,
nhưng do định nghĩa thương mại chỉ giới hạn trong 14 lĩnh vực hoạt động vì thế ở
các lĩnh vực khác như đầu tư Việt Nam không công nhận phán quyết của toàn án
quốc tế. Điều này cản trở rất nhiều cho Việt Nam trong các cuộc đàm phán thương
mại song phương và đa phương với các tổ chức thương mại quốc tế hay với các
quốc gia khác trên thế giới.
Tiến sĩ Phạm Văn Trắc, giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế đối ngoại
TP.HCM đưa ra vài dẫn dụ khiếm khuyết: Cùng thu lợi nhuận trong việc mua bán
nhà đất, các DN đăng ký kinh doanh nhà đất thì nằm trong phạm vi quản lý của
Luật Thương mại, nhưng cá nhân thì không. Luật xác định được thế nào là một DN
và cho phép đăng ký kinh doanh nhưng chưa có tiêu chí xác định thế nào là một
doanh nhân vì thế cũng chưa cho phép đăng ký doanh nhân. Theo ông Trắc, nên có
Luật Hợp đồng riêng, luật này không thuộc Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế, cũng
không thuộc Luật Thương mại để giải quyết các tranh chấp thương mại, tránh tình
trạng khi có tranh chấp thương mại liên quan đến sự việc nằm ngoài Luật Thương
mại thì phải áp dụng Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế, thậm chí vận dụng cả Luật Dân
sự như bao lâu nay, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý Nhà nước.
Ông Diệp Thành Kiệt, thực tế hơn, đưa ra những thiếu sót của Luật Thương
mại 1997. Theo ông, đến nay việc kiểm tra sau đăng ký kinh doanh của DN còn rất
yếu (khi thực hiện các hợp đồng kinh tế, các DN phải tự kiểm tra sự tồn tại của đối
tác); việc chống hàng gian, hàng giả, hàng nhái chưa được thực thi một cách triệt để
(tự thân DN phải thuê người đi điều tra và khi có vi phạm thì việc xử lý lại không
đủ sức răn đe); tự do đăng ký vốn điều lệ đang tạo kẽ hở cho việc kinh doanh không
lành mạnh (đăng ký ít để có lợi khi tranh chấp thương mại hoặc ngược lại); các ràng
buộc trong giao dịch thương mại điện tử chưa mang tính pháp lý (giao dịch xong
không bán, không giao hàng); chưa xác định rõ trong trường hợp nào Nhà nước can
thiệp vào hoạt động của DN và cơ quan nào được phép can thiệp (tránh tình trạng bị
lợi dụng nhũng nhiễu như đã từng xảy ra); các DN độc quyền như điện, nước, viễn
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Chuyên đề thực tập - 10-
thông không thực hiện nghiêm túc hợp đồng khi đột nhiên ngừng cung cấp sản
phẩm làm thiệt hại cho DN, trong khi lại có biện pháp chế tài ngay khi khách hàng
không thanh toán đúng hạn
Ông Trương Trọng Nghĩa, Phó Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại -
đầu tư TP.HCM cho rằng, Luật Thương mại mới cần định nghĩa rõ thế nào là hàng
hóa cho từng chủng loại để các cơ quan chức năng dựa vào xét xử khi có tranh
chấp, kiện tụng. Theo ông, luật hiện hành ít chương, ít điều nên DN xem trọng các
thông tư, nghị định dưới luật hơn trong các hoạt động kinh doanh sản xuất của mình
và bên cạnh việc tham khảo ý kiến trong nước, các nhà soạn luật mới cũng nên
tham khảo Luật Thương mại, Luật Hợp đồng mua bán hàng hóa của các nước
(1)
Tóm lại, trong quá trình thực hiện, Luật Thương mại đã bộc lộ những
hạn chế sau:
Thứ nhất, Luật Thương mại xác định chưa đầy đủ và phù hợp với đối tượng và
phạm vi điều chỉnh.
Đối tượng điều chỉnh theo Luật Thương mại bao gồm 14 hành vi thương mại
và không xác lập đầy đủ và hoàn chỉnh những tiêu chí về đối tượng điều chỉnh làm
cho phạm vi điều chỉnh của Luật bị hạn hẹp, không đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại thể hiện ở hai khía cạnh:
- Một là, về khái niệm “thương mại” theo các chế định của WTO và theo Hiệp
định Thương mại Việt - Mỹ thì “thương mại” bao gồm thương mại hàng hoá,
thương mại dịch vụ, thương mại trong đầu tư và thương mại trong sở hữy trí tuệ.
Hiện nay, pháp luật thương mại của nhiều nước cùng quan niệm thương mại theo
nghĩa rộng như WTO. Trong khi đó, Luật Thương mại 1997 của Việt Nam chỉ quan
niệm thương mại theo nghĩa hẹp, thực chất chỉ là “thương mại hàng hoá”, hơn nữa,
“thương mại hàng hoá” chủ yếu chỉ được hiểu là mua bán hàng hoá và một số dịch
vụ liên quan đến việc mua bán hàng hoá, được thể hiện trong 14 hành vi thương
mại.
1(1
)
Báo kinh tế đối ngoại của Bộ thư ơng mại ( số 13 ngày 29/3/2005)
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Chuyên đề thực tập - 11-
- Hai là, về khái niệm “hàng hoá” thuật ngữ “hàng hoá” được sử dụng phổ
biến trong pháp luật thương mại của các nước, cũng như trong các điều ước quốc tế
về thương mại. Theo đó, hàng hoá được hiểu theo nghĩa rộng, dựa trên hai thu ộc
tính là “có thể đưa vào lưu thông” và “có tính thương mại”. Nhìn chung, hàng hoá
thường được hiểu là tất cả các đối tượng được đem trao đổi, mua bán trên thị
trường.
Khái niệm “thương mại” và “hàng hoá” được quan niệm theo nghĩa hẹp đã
làm cho phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại 1997 rất hạn chế. Từ đó chi phối
đến việc xác định số lượng và nội dung các chế định pháp lý cơ bản trong giao dịch
thương mại và tạo ra sự khác biệt giữa pháp luật Thương mại Việt Nam so với pháp
luật thương mại quốc tế.
Thứ hai, hạn chế trong quy định về chủ thể của hành vi thương mại.
Luật Thương mại Việt Nam 1997 mới chỉ quy định điều kiện để trở thành
thương nhân là có đủ điều kiện kinh doanh thương mại, có yêu cầu hoạt động
thương mại chứ không quy định tính chất cửa thương nhân, ái không phải là thương
nhân. Trong khi đó, pháp luật thương mại của các nước trên thế giới thường quy
định một dấu hiệu pháp lý đối với thương nhân là “sản nghiệp thương mại”. Đây là
một trong những điều kiện quan trọng để xác định một thương nhân.
Thứ ba, về các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá.
Pháp luật của các nước trên thế giới đều quy định những nội dung chủ yếu của
hợp đồng mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, ở Việt Nam lại có quan điểm cho rằng
trong hợp đồng mua bán hàng hoá “càng nhiều điều khoản chủ yếu thì càng dễ thực
hiên” và khi có tranh chấp sẽ có cơ sở để giải quyết. Luật Thương mại 1997 quy
định các điều khoản chú yếu của hợp đồng là các điều khoản về tên háng, số lượng,
chất lượng, giá xả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Điều
này có thể phù hợp với thời kỳ Việt Nam mới phát triển kinh tế thị trường và mở
rộng hội nhập, nhưng hiện nay cần phải sửa đổi tạo điều kiện thuận lợi cho các giao
dịch thương mại phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ tư, về giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hoá.
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Chuyên đề thực tập - 12-
So với Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Luật Thương mại đã bổ sung thêm hai
hình thức chế tài là: Buộc thực hiện hợp đồng và huỷ hợp đồng. Sự bổ sung này là
cần thiết, song trên thực tế, hai chế tài này hầu như không được áp dụng, bởi Luật
Thương mại 1997 chỉ dựng lại ở những quy định chung, chưa có cơ sở pháp lý để
thực hiện và không phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế. Theo
công ước Viên 1980 thì khi áp dụng chế tài huỷ hợp đồng, không có nghĩa là các
bên chấm dứt mọi nghĩa vụ theo hợp đồng mà các điều khoản về giải quyết tranh
chấp trong hợp đồng vẫn còn nguyên giá trị. Điều đó là để đảm bảo quyền lợi và
nghĩa vụ các bên sau khi thực hiện huỷ hợp đồng.
(1)
1.6. Hoàn thiện Luật Thương mại Việt Nam để phù hợp hơn với thông lệ
quốc tế
Trước tình hình đó, Luật Thương mại cần được hoàn thiện để phù hợp với
thực tiễn thương mại nhất là thương mại quốc tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế khu vực và quốc tế.
1. Về phạm vi điều chỉnh:
Theo kinh nghiệm của các nước, để xác định một hành vi thương mại, người
ta thường dựa vào các tiêu chí sau:
- Bản chất của hành vi là nhằm mục đích kiếm lời, chẳng hạn việc mua hàng
hoá để bán lại, gia công hàng hoá cho người khác, thực hiện cung ứng các loại dịch
vụ để đạt mục đích lợi nhuận.
- Hình thức của hành vi, tức là hình thức hoạt động mà một chủ thế tiến hành,
có thể xác định trên cơ sở là hành vi của các chủ thể mà khi thành lập, chủ thể đó đã
được cói là người hoạt động thương mại.
- Tính phụ thuộc của hành vi đối với các hoạt động thương mại, đặc trưng nhất
là các dịch vụ gắn với việc mua bán hàng hoá hay các hoạt động xúc tiến thương
mại.
Ngoài ra, ở một số nước người ta cũng dựa vào các hành vi được thực hiện
ngay trong hoạt động của một doanh nghiệp để xác định đó là những hành vi
1(1
)
Website Bộ công nghiệp : www.moi.gov.vn
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Chuyên đề thực tập - 13-
thương mại như việc cho thuế nhà xưởng, kho tàng, mở hệ thống đại lý. Vì vậy,
Luật thương mại Việt Nam cần xác định các tiêu chí để phân định hành vi nào là
hành vi thương mại vì từ đó mới có thể xác định rõ đối tượng điều chỉnh của Luật
Thương mại và đưa ra các quy định phù hợp.
2. Về chủ thể của hành vi thương mại:
Thực tế nghiên cứu pháp luật ở các nước cho thấy, họ thường xác định thương
nhân dựa vào những đặc điểm sau:
- Có những tổ chức, cá nhân đương nhiên được coi là thương nhân khi họ thực
hiện những hành vi thương mại nhất định như mua bán hàng hoá, giấy tờ có giá, sản
xuất hoặc gia công hoá cho người khác mà không phụ thuộc vào việc họ có đăng
ký vào danh bạ thương mại hay không.
- Có những tổ chức, cá nhân xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của mình mà
đăng ký trở thành thương nhân, bao gồm đăng ký bắt buộc và đăng ký tự nguyện.
- Có những tổ chức, cá nhân chủ động thành lập công ty thương mại để hoạt
động thương mại thì đương nhiên được coi là thương nhân.
- Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân kinh doanh với quy mô nhỏ, không đòi hỏi
phải có cơ sở kinh doanh như một thương nhân bình thường, không bắt buộc phải
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của thương nhân (có tên thương mại, trụ sở) nhưng
trong hoạt động thương mại họ được hưởng những quyền và gánh vác những nghĩa
vụ như một thương nhân đầy đủ thì cũng được coi là thương nhân. Luật thương
mại Việt Nam nên mở rộng chủ thể của hành vi theo pháp luật quốc tế.
3. Về điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá:
Mặc dù các nước không quy định hoàn toàn giống nhau, song đa số pháp luật
thương mại của các nước và pháp luật thương mại quốc tế như công ước Viện 1980
về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đều xác định những điều khoản chủ yếu của
hợp đồng là: tên hàng, số lượng, giá cả
Vì vậy, Luật Thương mại Việt Nam cần sửa đổi về các điều khoản chủ yếu
của hợp đồng mua bán hàng cho phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm góp phần thúc
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Chuyên đề thực tập - 14-
đẩy các hoạt động thương mại, đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện
cho lưu thông hàng hoá và mở rộng giao lưu thương mại với các nước.
2. Sự mở rộng phạm vi khái niệm của Luật thương mại 2005
Trong nỗ lực hội nhập quốc tế để chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), ngày 14/06/2005, Quốc hội Việt nam đã thông qua Luật thương mại
sửa đổi, thay thế cho Luật thương mại cũ ban hành năm 1997. Luật thương mại
2005 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006.
Bố cục của Luật Thương mại (sửa đổi) gần như được đổi mới hoàn toàn so với
Luật Thương mại năm 1997. Sự đổi mới đó chủ yếu là do việc mở rộng phạm vi
điều chỉnh của luật, không chỉ điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hoá mà còn
điều chỉnh cả các hoạt động cung ứng dịch vụ và xúc tiến thương mại. Các nhóm
hoạt động thương mại cùng tính chất được tập hợp trong chương riêng: Chương IV
quy định về "Xúc tiến thương mại" hay Chương V về "Các hoạt động trung gian
thương mại"
Luật Thương mại 2005 được áp dụng đối với thương nhân, tổ chức, cá nhân
khác có các hoạt động liên quan đến thương mại. Riêng đối với cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh thì căn
cứ vào những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ sẽ quy định cụ thể bằng văn bản
dưới luật. Luật Thương mại 2005 đã mở rộng đối tượng áp dụng, không chỉ bao
gồm thương nhân hoạt động thương mại như cũ mà còn áp dụng cho cả tổ chức, cá
nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. Luật Thương mại 2005 có điểm
khác biệt với Luật Thương mại 1997 ở chỗ đối tượng thương nhân đã được mở rộng
khái niệm để bao trùm toàn bộ những chủ thể có hoạt động thương mại.
Luật Thương mại 2005 quy định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
thương mại phù hợp với nguyên tắc của Bộ Luật Dân sự 2005 cũng như thực tiễn
hoạt động thương mại tại VN. Việc mở rộng khái niệm thương mại đã giúp hài hoà
nguyên tắc điều chỉnh hoạt động thương mại của VN với chuẩn mực quốc tế. Cụ
thể, khái niệm hoạt động thương mại của VN hiện đã bao trùm các lĩnh vực thương
mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và các khía cạnh thương mại của đầu tư và sở
Nguyễn Phương Thảo L ớp: Lu ật kinh doanh 45
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét