Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Bước đầu nghiên cứu hiệu quả kinh tế cho giảm thiểu ô nhiễm tại công ty phân lân Văn Điển

Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
Chương III- Phân tích hiệu quả kinh tế cho giảm thiểu ô nhiễm ở Công ty
phân lân Văn Điển.
LỜICẢMƠN
Qua quá trình thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài:
“Bước đầu nghiên cứu hiệu quả kinh tế cho giảm thiểu ô nhiễm tại Công ty
phân lân Văn Điển”, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa
Kinh tế và Quản lý môi trường, đặc biệt cảm ơn Th.S Đinh Đức Trường đã
tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài này. Đồng
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44
Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
thời em xin cảm ơn tới chú Sơn- Phó phòng kỹ thuật và các chú trong
Công ty phân lân Văn Điển đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài
này.
Chương I -
CƠSỞKHOAHỌCCỦAPHƯƠNGPHÁPPHÂNTÍCHCHIPHÍ-
LỢIÍCH(CBA) ĐỐIVỚIGIẢMTHIỂUÔNHIỄM
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44
Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
I-KHÁINIỆMCBA:
1.1-Khái niệm CBA:
Hầu hết các dựán đầu tưđều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới
môi trường và xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có dựđiều tiết
của nhà nước, mọi hoạt động đầu tưđều được xem xét theo các góc độ sau:
người đầu tư, người tham gia vào hoạch định chính sách và các cá nhân
trong lĩnh vực xã hội.
Trên góc độ là nhàđầu tư ngoài những mục tiêu như lợi thế cạnh tranh,
đổi mới, uy tín… thì mục tiêu lợi nhuận vẫn là mục tiêu chính. Khả năng
sinh lợi về mặt tài chính là thước đo chủ yếu quyết định đầu tư, sinh lợi
càng cao thi càng hấp dẫn các nhàđầu tư. Tuy nhiên không phải dựán nào
có khả năng sinh lời về mặt tài chính đều tạo ra những tác động tích cực tới
môi trường và xã hội.
Nếu đứng trên góc độ nhà hoạch định chính sách thì phải xem xét một
cách toàn diện theo cả ba mặt kinh tế,xã hội và môi trường. Mọi phân tích
đối với họ phải là nhìn thấy hoặc phải chứng minh được để từđó họ mới
quyết đinh cho phép đầu tư hay không. Nhưng trong thực thế, đối với các
CBA mang tính xã hội có những vấn đề có thể tính toán được nhưng có
những vấn đề không thể tiên đoán được, vì vậy thuyết phục được họ là rất
khó.
Dứng trên phương diện là các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực xã hội
như các nhà triết học, kinh tế chính trị, xãhội học thường ranh luận về cơ
sở vị lợi của CBA họ cho rằng mọi hoạt động là không thể tiền tệ hoá như
uy tín của doanh nghiệp, lòng chung thành của khách hàng… Trong trường
hợp này, đòi hỏi các nhà làm CBA phải có những phân tích đầy đủ, chính
xác và có tính thuyết phục.
1.2. Nội dung của phương pháp phân tích chi phí- lợi ích:
1.2.1-Các bước tiến hành:
Bao gồm 9 bước
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44
Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
Bước 1: Quyết định lợi ích- chi phí thuộc về ai.
Trong quan điểm thực hiện phân tích chi phí- lợi ích có tính xã hội và
môi trường, vấn đề phân tích chi phí- lợi ích là bước đầu tiên có một vai
trò hết sức quan trọng vìđây là cơ sởđể ta có cách nhìn khá toàn diện đối
với phân bổ nguồi lực và mỗi một sự phân định đều có sự thay đổi về chi
phí và lợi ích.
Tuỳ thuộc làđứng trên quan điểm nào sẽ có cách nhìn nhận theo quan
điểm đó, nếu là các nhà hoạch định chính sách có quan điểm vĩ mô hơn
nữa là tầm cỡ quốc tế, nếu là các nhà quản lýđịa phương thì chỉ là lợi ích
của địa phương họ, từđó sẽđưa ra những quyết định phù hợp theo từng
quan điểm.
Bước 2: Trên cơ sở phân định, lựa chọn các dựán có khả năng thay
thế
Phải lựa chọn nhiều giải pháp có khả năng thay thế chó nhau tuỳ thuộc
vào quan điểm tiếp cận và cách thức tiếp cận. Vì bất cứ một dựán nào
trong thực tế cũng có nhiều phương án lựa chọn khác nhau. Khi đã có
nhiều phương án lựa chọn khác nhau thìđó là cơ hội để lựa chọn phương
án tối ưu nhất.(hình1)
hình1: sự biến thiên hai dòng tiền
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44
Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
Về mặt lý thuyết: chúng ta xem xét hai dòng tiền B(Q) và C(Q) theo
mô hình trên. Giả sử rằng khi phân tích một dựán, hàm biến thiên của lợi
ích đối với dựán này là B(Q). Để cóđược B(Q) phải bỏ ra chi phí tương
ứng là C(Q), như vậy hoạt động của dựán này đạt giá trị cực đại về lãi ròng
nằm ngoài Q
*
. Xét về tính tương đồng sẽ có hai nhóm giải pháp còn lại:
- Mức hoạt động tương ứng với Q
i
: 0 < Q
i
< Q
*
- Mức hoạt động tương ứng với Q
k
: Q
*
< Q
k
<
Π
Q
Đối với các mức lãi ròng thuộc mức hoạt động tương ứng với Q
i
chúng ta có thể hiểu: Nếu tiếp tục đầu tư lãi ròng sẽ tăng. Ngược lại nếu
mức lãi ròng thuộc Q
k
thì cứ tiếp tục đầu tư lãi ròng sẽ giảm
Bước 3: Liệt kê các ảnh hưởng tiềm năng và lựa chọn chỉ sốđo
lường
Trong phân tích các dựán, đặc biệt là các dựán có liên quan đến môi
trường, đánh giá những ảnh hưởng tiềm năng và từđó xem xét các chỉ sốđể
tính toán là vấn đềđòi hỏi một kỹ thuật cao. Để xác định các tác động tới
môi trường khi thực hiện một dựán và xác định các tác động đó một cách
đầy đủ là rất khó. Không chỉ việc xác định khó mà việc lựa chọn những chỉ
sốđểđo lường, định tính là việc vô cùng khó.
Nếu bước này không làm chính xác, không đảm bảo tính toàn diện thì
quá trình thực thi dựán dễ gặp phải rủi ro. Mặt khác, nếu tính không đầy đủ
xét về mặt dài hạn thì những tiềm năng mà chúng ta không dựđoán được
trước sẽ là nguyên nhân trong việc đưa ra những quyết định kinh doanh sai
lầm.
Bước 4: Dựđoán, tính toán những ảnh hưởng về lượng trong suốt
quá trình dựán
Tác động của dựán xảy ra trong một không gian, thời gian cụ thể trên cơ
sở chúng ta đã liệt kê xác định được những ảnh hưởng có tính tiềm
năng,vấn đề quan trọng là những ảnh hưởng tiềm năng đó phải được
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44
Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
lượng hoá như thế nào dựa vào các nguyên lý và các chỉ tiêu để chúng ta
xác định về mặt lượng.
Bước 5: Lượng hoá bằng tiền của tất cả các tác động đã xác định.
Từ thực tế của những người đã thực hiện CBA cũng như vận dụng lý
luận kinh tếđể xem xét vấn đề này thìở bước 5 đòi hỏi các nhà phân tích
phải tiền tệ hoá. Trong vấn đề quy đổi thành tiền của các tác động thì vấn
đề cơ bản là giá. Có hai dạng giá mà chúng ta cần sử dụng trong quá trình
lượng hoã bằng tiền:
+ Giá thị trường
+ Giá tham khảo
Việc chuyển hoá các tác động thành giá trị tiền tệ phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khách quan cũng như chủ quan của người làm đánh giá.
Nếu ta gọi chi phí dựán, chi phí môi trường ( thiệt hại) mà dựán đưa lại ở
năm thư nhất là C
1
, EC
1
, ở năm thứ hai là C
2
, EC
2
, vàở năm thứ n là C
n
,
EC
n
thì tổng chi phí của dựán và chi phí môi trường là :

=
=+++
n
t
tn
CCCC
1
21


=
=++
n
t
tn
ECECECEC
1
21

Tổng quát ta có tổng chi phí cho hoạt động là:
0
11
CECC
n
t
t
n
t
t
++
∑∑
==
Trong đó:
C
0
: Chi phí ban đầu như khảo sát, thiết kế hay xây dựng và
thiết bị …
EC
t
: Chi phí môi trường cho dựán hoạt động ở năm thứ t.
t: là thời gian hoạt động của dựán, t = 1,2,…n năm
Cũng như vậy nếu gọi lợi ích mà dựán đem lại cho doanh nghiệp , môi
trường tại khu vực dựán năm thư nhất là B
1
,EB
1
, và năm thư hai là B
2
, EB
2
… ,năm thư n là B
n
, EB
n
, thì tương tự tổng lợi ích mà dựán đưa lại là:
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44
Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
∑∑
==
+
n
t
t
n
t
t
EBB
11
Trong đó:
EB
t
: là lợi ích tính bằng tiền ở năm thứ t.
B
t
: là lợi ích dựán ở năm thứ t.
t: là thời gian hoạt động của dựán, t = 1,2,…,n năm.
Bước 6: Quy đổi giá trị tiền tệ.
Đây là việc bất cứ nhà phân tích nào cũng phải làm vìđối với tất cả các
dựán được triển khai trong thực tế không hoàn toàn theo đúng như trong kế
hoạch, luôn có sự thay đổi khi dựán tiến hành trong nhiều năm. Để phảánh
đúng bản chất của nó, người ta đưa tất cả các giá trị lợi ích và tất cả các giá
trị chi phí về các thời điểm sau để so sánh:
+ Giá trị trong hiện tại
+ Giá trị trong tương lai
Hệ sốđược sử dụng để tính giá trị hiện tại và tương lai là hệ số chiết
khấu ( tỷ lệ chiết khấu). Cơ sở xác định giá trị chiết khấu căn cứ vào
hệsốdo chính phủđề ra: có thể lấy ra từ phần quản lý ngân sách, Bộ tài
chính hay kho bạc hoặc phòng tổng hợp kế toán quốc gia.
Giả sử có khoản tiền P gửi ngân hàng với lãi suất hàng năm là r ( r
được tính bằng %). Thì số tiền thu được sau t năm là:
P(t) = P(1+ r)
t
Ngược lại số tiền gửi ban đầu là:
t
r
P
P
)1(
+
=
Tương tự như vậy, để tính lượng tiền thu được sau t năm (năm đầu tư
tại thời điểm ban đầu được coi là thời điểm hiện tại ) ta đưa ra đại lượng
tương tự lãi suất, đó là hệ số chiết khấu đồng tiền r, được tính bằng % theo
năm. Hệ số chiết khấu được biểu thị qua hai yếu tố của đòng tiền đó là:
+ Cơ hội đầu tư của đồng tiền.
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44
Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
+ Cơ hội vay mượn tiền.
Như vậy muốn tính được giá trị hiện tại thực phải nhân với hệ số:
t
r)1(
1
+
Trong đó:
t: là thời gian hoạt động của dựán, t = 1,2,…,n năm.
r: là hệ số chiết khấu
Bước 7: Tổng kết các lợi ích và chi phí.
Bước này được thành lập sau khi đã tính toán quy đổi các giá trị tiền tệ.
Việc tổng kết các lợi ích và chi phíđược căn cứ vào các chỉ tiêu IRR, NPV,
B/C nhưng trong thực tế các chỉ tiêu trên không phảánh đúng giá trị thị
trường. Do đó, đòi hỏi các nhà phân tích phải có quan điểm giả thích phù
hợp đối với từng loại dựán một.
Bước 8: Tiến hành phân tích độ nhạy.
Là khả năng đối phó của dưán khi những diễn biến sau có thể xảy ra:
+ Thay đổi lãi suât ngân hàng.
+ Lạm phát.
Đối với nhà phân tích phải căn cứ vào sự biến thiên giá trịđồng tiền, thị
trường có liên quan đến lạm phát… để lựa chọn các chỉ số r phù hợp.
Bước 9: Tiến cử những phương án có lợi ích xã hội cao nhất.
Phương án được ưa thích nhất trong tiến cử là phương án đem lại lợi ích
nhất, hiệu quả nhất, đạt được các chỉ tiêu mong muốn như y đồ ban đầu
đưa ra. Đối với người làm CBA chỉ có quyền tiến cử các phương án nên
lựa chọn chứ không thểđưa ra một quyết định nào, còn quyết định là do
cấp cao hơn hoặc làđối tượng yêu cầu tiến hành CBA. Vì trong thực tế
giữa quan điểm nhìn nhận của người phân tích chuyên môn có sự khác
nhau với nhà quản lý và lãnh đạo vì nhà chuyên môn chỉ nhìn nhận dưới
góc độ chuyên môn: lãi ròng thông qua gia trị tiền tệ. Còn nhà quản lý lãnh
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44
Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
đạo, đặc biệt là người lãnh đạo chính quyền còn phải quan tâm đến nhiều
yếu tố khác: chính trị, an ninh, xã hội.
Tóm lại: Như vậy thông qua 9 bước nêu trên, người làm CBA và các nhà
phân tích phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước đồng thời hiểu rõ các quy
định của từng bước, đó là sự kế thừa lẫn nhau.
1.2.2- Các hạn chế của phương pháp phân tích chi phí- lợi ích
Trong thực tế, CBA được sử dụng nhiều vào phân tích dựán thực thi
hoạch định chính sách từđóđưa ra những quyết định phù hợp. Từ thực tiễn
vận dụng phương pháp này, các nhà phân tích CBA thường vấp phải
những hạn chế trước khi đưa ra những quyết định. Các hạn chếđó là:
+ Hạn chế về mặt kỹ thuật gây ra những khó khăn trong việc chúng ta
định lượng, tiếp theo là tiền tệ hoá các tác động liên quan đến chi phí- lợi
ích.
+ Các mục tiêu ngoài tính hiệu quả liên quan đến dựán.
1.2.2.1- Hạn chế về mặt kỹ thuật của CBA.
Để thực hiện được tiêu chí Kaldor- Hocks, về cơ bản mọi tác động liên
quan phải lượng hoá bằng tiền, như vậy chúng ta mới xác định được NPV
(lãi ròng). Nhưng trong thực tiễn, vì các nhà phân tích sẽ gặp phải một số
khó khăn, hạn chế về mặt lý thuyết, về mặt dữ liệu, trình độ, làm thế nào
để quy đổi ra giá trị tiền tệ mà những giá trịđó trong thực tế việc đo lường
được là việc rất khó khăn. Những quy luật thị trường như hiện nay nhiều
quy luật không phản ánh về giá cả, do đó chúng ta phải đổi mới khả năng
quy đổi về giá trị tiền tệ. Chính vì vậy buộc các nhà CBA phải có những
phương thức khác đểáp dụng thích hợp nhằm tháo gỡ mâu thuẫn ấy.
1.2.2.2- Các mục tiêu ngoài tính hiệu quả mà nó liên quan tới
Khi xem xét đến hiệu quả cần đặc biệt chúý tới hiệu quả pareto vìđểđi
đến quyết định CBA nhất là trong vấn đề giải quyết chính sách các vấn đề
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44
Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường
ĐHKTQD
công cộng nhưng không phải trong thực tiễn đều đạt được mong muốn như
vậy. Khi các giá trịđó phản ánh ngoài tính hiệu quả thì người làm CBA
phải tiếp cận theo các cách khác để cho phù hợp hơn.
1.2.3- Những biện pháp khắc phục hạn chế của CBA.
1.2.3.1- Biện pháp khắc phục những hạn chế kỹ thuật của CBA:
* Phương pháp CBA định tính:
Theo quan điểm của Benjamin Franklin cho rằng để thực hiện CBA
định tính, trước hết người làm CBA phải cố gắng tiền tệ hoáđược những
tác động có thể lượng hoá càng tốt. Còn đối với những trường hợp không
lượng hoáđược bằng tiền thìước lượng định tính theo nguyên tắc: những
tác động đó là những tác động được xã hội thừa nhận và có cơ sở khoa học
đểđưa ra những tác động đóđiều này phụ thuộc nhiều vào trình độ của
người phân tích.
Định lượng các chi phíđầu vào: trong trường hợp này chúng ta phải dùng
rất nhiều kỹ thuật khác nhau, quan trọng làđòi hỏi những người được
hưởng lợi ích từđầu tư này đẫn đến phải điều tra lấy ý kiến của những
người được hưởng những lợi ích đó. Khi xác định được về mặt định tính
vàđịnh lượng những lợi ích mà dựán cải tạo mang lại một cách chính xác,
hoàn toàn không được áp đặt tính chủ quan.
*Phương pháp phân tích chi phí hiệu quả:
Những phân tích tác động không tiền tệ hoáđược, trong trường hợp đó
ngoài cách tiếp cận trên thì còn có một phương thức tiếp cận nữa đảm bảo
thích hợp hơn đó là phân tích chi phí hiệu quả. Đây là phương pháp khắc
phục trường hợp không sử dụng được CBA nghĩa là không tính được toàn
bộ chi phí về mặt kỹ thuật mà chỉ tính được một khoản nào đó.
Nguyên tắc của phương pháp này: Dựa trên nguyên lý là xây dựng hệ số
liên quan đến lợi ích định lượng nhưng lại không tiền tệ hoáđược so với
tổng chi phí bằng tiền. Chúng ta so sánh các hệ sốđó với các chính sách lựa
Phạm Nguyễn Thuỳ Linh KT & QLMT
44

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét