Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp nông nghiệp

tiến, đội ngũ cán bộ làm công tác dự báo và phát triển thị trường ).
• Khả năng xúc tiến thương mại: quảng cáo sản phẩm theo hình thức nào, mức độ
tham gia các hội chợ/triển lãm trong và ngoài nước
• Mạng lưới dịch vụ bán và sau bán hàng: số lượng đại lý trong và ngoài nước, tỉ lệ
tiêu thụ theo các kênh thị trường, dịch vụ sau bán hàng (chế độ bảo hành bảo
dưỡng, cung cấp phụ tùng thay thế, khuyến mại ).
• Mối quan hệ khách hàng/đối tác (sự tham gia vào các hiệp hội ngành hàng )
được thể hiện qua một số chỉ tiêu gián tiếp như trang thiết bị thông tin liên lạc, tỉ
lệ doanh nghiệp tham gia các hiệp hội, v.v
Ngoài ra, phiếu phỏng vấn giám đốc cũng giúp nhóm nghiên cứu đánh giá năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc cho điểm đối với những chỉ tiêu được
sắp xếp trong 6 nhóm chính như sau:
1. Năng lực quản lý 2. Phát triển thị trường
Tính hợp lý của nguồn lực quản lý
Hiệu quả của hỗ trợ pháp lý
Sự hiểu biết về marketing
Hiệu quả của mạng lưới cung ứng
Tính hợp lý của giá cả
Năng lực quảng cáo/khuyến mại
3. Khả năng phát triển công nghệ 4. Tính cạnh tranh của sản phẩm
Khả năng phát triển/thiết kế sản phẩm
Sự hợp lý của đầu tư công nghệ
Sức sống của dây chuyền sản xuất
Tính cạnh tranh về chi phí
Tính hợp lý của sản phẩm
5. Trình độ quản lý chất lượng 6. Mối quan hệ khách hàng
Sự nhất quán trong quản lý chất lượng
Bao bì nhãn mác
Hiệu quả của hình thức phục vụ/dịch vụ
Mối quan hệ/liên doanh quốc tế
Năng lực hỗ trợ/dịch vụ khách hàng
Nhóm nghiên cứu thử áp dụng phương pháp tính chỉ số cạnh tranh của Diễn đàn
kinh tế thế giới và một số dự án (VCCI-USAID) đã áp dụng cho Việt Nam. Những chỉ
tiêu này được chuẩn hóa theo thang điểm từ 1 đến 10 (điểm càng cao thì càng mạnh về
vấn đề này), sau đó lấy điểm trung bình của các chỉ tiêu để tạo ra chỉ số cấu thành.
Công thức tiêu chuẩn hóa được sử dụng có dạng như sau: [9*(điểm của doanh nghiệp-
điểm tối thiểu của mẫu)/(điểm tối đa của mẫu-điểm tối thiểu của mẫu)+1]. Từ 6 nhóm
chỉ tiêu này ta có thể hình thành một chỉ số cạnh tranh cho các doanh nghiệp theo 2 mức
độ: a)mức đơn giản là cộng gộp các nhóm lại (có nghĩa là coi các nhóm chỉ số có trọng
số như nhau) hoặc b)cho mỗi nhóm một trọng số thể hiện tầm quan trọng của chúng đối
với doanh nghiệp.
2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC HỘI NHẬP KTQT CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NÔNG NGHIỆP
Theo định nghĩa của Tổng cục Thống kế trong số liệu điều tra các năm gần đây
“doanh nghiệp được hiểu như là một đơn vị kinh tế thực hiện hạch toán kinh tế độc lập,
có đầy đủ tư cách pháp nhân, được hình thành theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật
Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư trực tiếp của nước ngoài có những hoạt
5
động sản xuất kinh doanh liên quan đến nông lâm nghiệp với các loại hình như: i)
Doanh nghiệp Nhà nước (do Trung ương hoặc địa phương quản lý); ii) Doanh nghiệp
tập thể (Hợp tác xã ); iii) Doanh nghiệp tư nhân; iv) Công ty hợp doanh, liên doanh; v)
Công ty trách nhiệm hữu hạn; vi) Công ty cổ phần (kể cả doanh nghiệp Nhà nước cổ
phần hoá, công ty cổ phần có vốn góp của Nhà nước”. Tuy nhiên do thời gian và nguồn
nhân lực hạn hẹp, đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp có sản xuất
kinh doanh sản phẩm/dịch vụ liên quan đến các ngành nông nghiệp và lâm nghiệp,
tham gia vào bất kỳ công đoạn nào của sản phẩm nông lâm nghiệp.

Báo cáo này được tổng hợp từ nghiên cứu của
Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông
nghiệp nông thôn thông qua việc khảo sát một
số doanh nghiệp nông lâm nghiệp tại 8 tỉnh đại
diện cho các vùng trong cả nước như:Phú Thọ
(miền núi phía Bắc); Hải Phòng (Đồng bằng
sông Hồng); Quảng Trị (Duyên hải miền
Trung); Gia Lai và Đắk Lắk (Tây Nguyên);
Bình Phước và Tp. Hồ Chí Minh (Đông Nam
Bộ); và Cần Thơ (Tây Nam Bộ). Đây là các
tỉnh có số lượng doanh nghiệp nông lâm nghiệp
tương đối tập trung và mang tính đại diện cho
vùng, nhất là về vấn đề hội nhập của nền kinh
tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng.
Ngoài những doanh nghiệp đại diện về những
mặt hàng có thế mạnh các tỉnh trên còn đại diện
cho những điều kiện của quá trình hội nhập
kinh tế của nước ta, nhất là một số tỉnh như Tp.
Hồ Chí Minh và Cần Thơ với sự phát triển của
ngành hàng lúa gạo và Đắk Lắk – thủ đô của
cây cà phê.
Phương pháp phỏng vấn sâu được sử dụng như là công cụ chính nhằm tìm hiểu
đánh giá thế mạnh, điểm yếu, cơ hội và mối đe dọa của quá trình hội nhập đối với các
doanh nghiệp cũng như năng lực cạnh tranh và hội nhập hiện tại của các doanh nghiệp.
Nhóm nghiên cứu thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu và hội thảo toạ đàm với lãnh đạo
doanh nghiệp, các phòng/ban quan trọng liên quan đến năng lực hội nhập của doanh
nghiệp như kế hoạch, tổ chức, thị trường
2.1. Nhóm các yếu tố về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
a) Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp: Các cuộc tọa đàm trao đổi các doanh
nghiệp cho thấy bộ máy tổ chức của các doanh nghiệp nông lâm nghiệp còn khá cồng
kềnh, nhất là các doanh nghiệp khu vực Nhà nước. Qui mô phổ biến của các doanh
nghiệp điều tra từ 10 tới 500 người, chiếm hơn 80%. Các doanh nghiệp có qui mô tới
10 người chủ yếu là các công ty trách nhiệm hữu hạn, chiếm gần 3%. Chỉ có gần 13%
số doanh nghiệp điều tra có qui mô trên 1000 người. Các công ty trách nhiệm hữu hạn
6
có qui mô nhỏ, trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước có qui mô lao động từ 100 đến
500 người.
Năng lực hội nhập của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào trình độ cán bộ trên
các mặt chuyên môn, vi tính, ngoại ngữ cũng như tần suất được cập nhật kiến thức
thông qua việc làm việc với chuyên gia bên ngoài, tham quan/làm việc tại nước ngoài
cũng như tiếp đón các chuyên gia nước ngoài. Các con số này không phải là cao để có
thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập trong thời gian tới, nhất là các chỉ tiêu
về tỉ lệ người có thể làm việc trực tiếp với chuyên gia nước ngoài (đạt 3,53% so với
tổng số lao động trong doanh nghiệp) cũng như tỉ lệ người sử dụng thành thạo máy tính,
một công cụ hữu ích trong công việc nhất là trong thời đại của kinh tế trí thức và công
nghệ thông tin bùng nổ. Về các chỉ tiêu này doanh nghiệp liên doanh có ưu thế hơn.
Tỉ lệ người biết ngoại ngữ tại các doanh nghiệp cũng rất khác nhau. Nếu như con
số này của doanh nghiệp liên doanh là gần 70% thì tại các doanh nghiệp Nhà nước địa
phương là 5,79%, công ty cổ phần chỉ có 4,98%. Đối với doanh nghiệp Nhà nước
Trung ương con số này mới là hơn 8% và chưa đến 10% đối với các doanh nghiệp tư
nhân. Các con số trên phản ánh phần nào đúng hiện trạng của các doanh nghiệp nông
lâm nghiệp hiện nay. Các doanh nghiệp Nhà nước địa phương có tỉ lệ người có thể làm
việc trực tiếp với chuyên gia và sử dụng máy vi tính thấp nhất so với các loại hình
doanh nghiệp khác. Cao nhất là doanh nghiệp liên doanh, tiếp theo là các công ty
TNHH, các công ty cổ phần và doanh nghiệp Nhà nước Trung ương. Nguyên nhân của
hiện tượng này là đa số các công ty TNHH cũng như các doanh nghiệp liên doanh được
thành lập trong thập kỷ gần đây nên đã tuyển dụng được lực lượng lao động được đào
tạo cơ bản hơn về ngoại ngữ và vi tính. Yếu tố địa lý cũng ảnh hưởng phần nào đến các
chỉ tiêu này của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh có các chỉ tiêu trên cao nhất. Tỉ lệ người sử dụng thành thạo máy vi tính chiếm
hơn 30% và người có thể làm việc trực tiếp với chuyên gia nước ngoài là hơn 11%,
trong khi con số này của các doanh nghiệp Bình Phước, Gia Lai, Cần Thơ và Phú Thọ
quá thấp, hầu như nhỏ hơn 3%. Điều này là thể hiện điều kiện tiếp cận với những khoa
học kỹ thuật cũng như môi trường hội nhập và thương mại khác nhau của các địa bàn.
Việc đào tạo cán bộ của các doanh nghiệp điều tra cũng rất khác nhau. Doanh
nghiệp Nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn có ưu thế về đào tạo trong và ngoài
nước thông qua chỉ tiêu số lượt người trung bình được đi học tập/thăm quan và làm việc
trong 3 năm gần đây cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Đối với doanh nghiệp tư
nhân thì chỉ tiêu này quá thấp hầu như dưới 3 lượt người, thậm chí cả việc đào tạo trong
nước chứ chưa kể đến đào tạo ngoài nước. Về các chỉ tiêu này thì các doanh nghiệp
Nhà nước địa phương kém hơn cả mới chỉ có 3-4 lượt người đi học tập/đào tạo/làm
việc tại nước ngoài cũng như trong nước trong 3 năm gần đây còn lượng khách nước
ngoài đến doanh nghiệp chưa đến 3 lượt người. Đặc biệt số lượt người được đào tạo về
vấn đề hội nhập đối với các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Mới chỉ có các doanh nghiệp
Nhà nước Trung ương và Công ty cổ phần được đào tạo về vấn đề hội nhập trong thời
gian qua mặc dù số lượt người còn quá thấp bình quân chưa đến 2 lượt người trong 3
năm gần đây.
b) Nguồn tài chính trong doanh nghiệp: Tài chính luôn là vấn đề quan trọng đối
với doanh nghiệp, nhất là tỉ lệ vốn tự có. Đây là chỉ tiêu đánh giá sức mạnh tài chính
7
của doanh nghiệp thể hiện sự phát triển của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp trong ngành nông lâm nghiệp điều tra có tổng vốn bình quân hơn 97
tỉ đồng, trong đó gần ½ là vốn tự có (43,4%). Tuy nhiên, giữa các loại hình
Biểu 1. Khả năng về vốn của DN trong 3 năm gần đây
Loại hình doanh nghiệp
Tổng vốn bình
quân (tr.đ)
Tỉ lệ vốn SXKD
(%)
Tỉ lệ vốn
tự có (%)
DN Nhà nước Trung ương 368.456 14,5 26,6
DN Nhà nước địa phương 29.105 6,7 23,0
Công ty cổ phần 53.732 19,1 39,2
Công ty TNHH 11.306 20,5 56,9
DN tư nhân 8.829 13,8 64,9
DN liên doanh - - -
Chung 97.253 15,5 43,4
Nguồn: Điều tra đề tài; Chỉ tiêu được tính trên DN cung cấp số liệu
doanh nghiệp có sự khác nhau tương đối rõ nét. Doanh nghiệp Nhà nước Trung ương
có vốn lớn nhất, trung bình gần 400 tỉ đồng, trong khi các doanh nghiệp tư nhân và
công ty trách nhiệm hữu hạn có mức vốn nhỏ ở mức 8-12 tỉ đồng. Doanh nghiệp Nhà
nước địa phương có vốn tương đối lớn (trung bình gần 30 tỉ đồng) nhưng còn kém xa
các doanh nghiệp Trung ương cùng thành phần. Ngược lại, các công ty cổ phần, trách
nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân lại có tỉ lệ vốn tự có cao trong tổng vốn hàng
năm, chiếm tới 50-75%. Con số này đối với các doanh nghiệp Nhà nước lại thấp dưới
30%, đặc biệt các doanh nghiệp địa phương chỉ có hơn 23% vốn tự có Như vậy, tỉ lệ
vốn vay của các doanh nghiệp này khá lớn phần nào hạn chế năng lực cạnh tranh khi có
những biến động về tài chính và kinh tế trong khu vực, tác động không nhỏ đến năng
lực hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai như mở rộng thị trường, đổi mới công nghệ
và thiết bị, v.v
Xét theo ngành nghề sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp trong ngành lúa gạo
có lượng vốn lớn nhất trong các doanh nghiệp điều tra đạt tới hơn 400 tỉ đồng
nhưng lượng vốn tự có lại thấp chỉ có 46,3%. Tình hình diễn ra tương tự đối với các
doanh nghiệp kinh doanh cà phê, số vốn bình quân gần 100 tỉ đồng nhưng chỉ có 14,3%
là vốn tự có. Nguyên nhân của tình hình này là các doanh nghiệp trong 2 ngành hàng
này hoạt động chủ yếu trong việc thu mua nguyên liệu (gạo, cà phê) phục vụ xuất khẩu
với khối lượng lớn cũng như huy động lớn theo thời điểm nhất định đáp ứng những đơn
hàng nên lượng vốn lưu động rất lớn, cần có sự hợp tác của nhiều doanh nghiệp trong
ngành cho một đơn hàng cụ thể. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo vốn lưu động
cho việc thu mua gạo nguyên liệu chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay của các ngân hàng và
nguồn vốn từ các quỹ của Nhà nước (Quỹ hỗ trợ phát triển ) và lượng vốn này không
phải là nhỏ đối với những hợp đồng cho 1 chuyến tàu xuất khẩu hàng trăm ngàn tấn
gạo. Nhu cầu về vốn lưu động để huy động nguồn hàng cà phê trong ngành hàng cà phê
cũng lớn tương tự. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp có tỉ lệ vốn tự có đáng kể như các
doanh nghiệp kinh doanh và chế biến hạt điều (gần 76%), các doanh nghiệp chế biến và
8
xuất khẩu lâm sản (gần 60%) hay các doanh nghiệp trong ngành rau quả (hơn 50%).
Thực tế từ cuộc khủng hoảng giá cà phê năm 2000-2001 cho thấy chỉ có những doanh
nghiệp/hộ có tiềm lực vốn lớn mới có thể vượt qua được những biến động lớn như vậy.
Phần lớn các hộ hay doanh nghiệp trong thời gian này do thiếu vốn kinh doanh đã phải
bán cà phê với giá quá thấp gây lỗ lớn và khả năng đầu tư để duy trì vườn cây hầu như
bằng không như vậy không những ảnh hưởng xấu đến việc kinh doanh hiện tại mà còn
tới những năm sau này. Trong khi nhiều hộ/doanh nghiệp có vốn lớn và dài hơi hơn đã
không vội bán sản phẩm mà lưu kho chờ giá lên sau này đã không những hoàn được chi
phí sản xuất mà còn có những lợi nhuận nhất định.
c) Trình độ công nghệ trang thiết bị trong doanh nghiệp: Mức độ mua
sắm của doanh nghiệp đối với những trang thiết bị trong các năm gần đây được dùng để
gián tiếp đánh giá mức độ trang bị mới cũng như trang bị thông tin liên lạc trong doanh
nghiệp. Số liệu tổng hợp cho thấy mức chi cho những trang thiết bị bình quân 3 năm
gần đây còn quá hạn chế trong các doanh nghiệp điều tra. Xét về chỉ tiêu mua sắm máy
móc thiết bị các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương đầu tư lớn hơn bình quân tới gần
8 tỉ đồng/năm chiếm gần 6,6% tổng chi hàng năm. Con số này cũng khá cao so với
công ty trách nhiệm hữu hạn: 2,76 tỉ đồng/năm và chiếm 9,64% tổng chi hàng năm. Các
loại hình doanh nghiệp doanh nghiệp còn lại (Nhà nước địa phương, cổ phần và tư
nhân) có mức chi khá khiêm tốn, ở mức 5% trong tổng chi hàng năm. Về việc đầu tư
đất đai và nhà xưởng thì các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và doanh nghiệp tư
nhân có chú trọng hơn, gấp 2-6 lần về giá trị và 2-3 lần về tỉ lệ chi trong tổng chi của
các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, xét về chỉ tiêu tương đối các doanh nghiệp
tư nhân có tỉ lệ đầu tư vào đất đai và nhà xưởng lớn nhất chiếm gần 7% tổng chi hàng
năm. Các doanh nghiệp điều tra có xu hướng đầu tư ít vào phương tiện vận tải, với mức
bình quân phổ biến dưới 2% tổng chi phí ngoại trừ các công ty TNHH và doanh nghiệp
tư nhân con số này có phần lớn hơn (chiếm 5-6% tổng chi). Số liệu cũng cho thấy
không phải doanh nghiệp nào cũng có đầu tư vào việc tăng cường trang thiết bị nêu
trên. Tỉ lệ doanh nghiệp có đầu tư vào những trang thiết bị này mới ở mức 45-55% tùy
theo các hạng mục. Đối với những công cụ làm việc tiên tiến như máy vi tính, thiết bị
văn phòng khác cũng được các doanh nghiệp đầu tư thích đáng. Tỉ lệ số doanh nghiệp
mua sắm cũng lớn hơn, chiếm khoảng 2/3 số doanh nghiệp được phỏng vấn. Tuy nhiên,
mức chi cho những công cụ phục vụ việc nâng cao năng lực hội nhập kinh tế quốc tế
của các doanh nghiệp còn quá khiêm tốn. Mức chi trung bình mới ở con số dưới 50
triệu đồng/năm chiếm chưa đến 0,5% tổng chi phí hàng năm, trừ các doanh nghiệp Nhà
nước Trung ương.
Qua khảo sát sâu các doanh nghiệp của 2 ngành hàng lúa gạo và cà phê cho thấy
mức độ trang bị kỹ thuật của các doanh nghiệp được phỏng vấn cũng chỉ ở mức trung
bình. Khả năng tiếp cận công nghệ nguồn của các doanh nghiệp rất hạn chế, nặng tính
chắp vá và tận dụng nhiều. Có tới gần 43% số dây chuyển sản xuất chính của các doanh
nghiệp được trang bị trong những năm trước 2000. Một thực trạng khá phổ biến trong
các doanh nghiệp là tính chắp vá trong các dây chuyền thiết bị bởi tồn tại đan xen giữa
công nghệ hiện đại và các công nghệ cũ và lạc hậu do thiếu khả năng đầu tư. Chính
điều này đã làm khó cho các chủ doanh nghiệp khi phải xác định trình độ công nghệ
của đơn vị mình. Số lượng dây chuyền sản xuất chính được mua sắm trong 3 năm gần
đây không nhiều. Các dây chuyền phân loại sản phẩm và tách tạp chất của các doanh
9
nghiệp điều tra phổ biến là công nghệ của những năm 90. Ví dụ, theo đánh giá của Sở
Công nghiệp Cần Thơ chỉ có 25% số doanh nghiệp trong ngành lúa gạo của tỉnh được
trang bị công nghệ trung bình tiên tiến; 50% - công nghệ trung bình thấp và còn lại là
các công nghệ lạc hậu với thiết bị cũ. Tình hình diễn ra tương tự đối với các doanh
nghiệp trong ngành cà phê. Tỉ lệ các doanh nghiệp được trang bị những dây chuyền
tách màu rất nhỏ (mới có 3/10 doanh nghiệp điều tra) và công nghệ của những năm 90.
Mới có 1 doanh nghiệp được trang bị dây chuyền chế biến sâu còn hầu như các doanh
nghiệp sản xuất và buôn bán nguyên liệu thô (nhân cà phê khô). Phần lớn các sản phẩm
cà phê hạt được phơi khô. Tỉ lệ doanh nghiệp được trang bị dây chuyền chế biến ướt
chiếm tỉ lệ tương đối lớn trong các doanh nghiệp điều tra (6/10 doanh nghiệp). Tuy
nhiên, các dây chuyền này được sắm trước năm 1995, hiện nay hầu như không còn hoạt
động do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự xuống cấp của máy móc thiết bị, thiếu
nguyên liệu đủ tiêu chuẩn cho chế biến hay thiếu nhu cầu về các sản phẩm này. Mặt
khác, các trang thiết bị này phần lớn được chế tạo trong nước (sản phẩm của công ty cơ
khí cà phê tại Nha Trang) nên chất lượng cũng không được cao như các dây chuyền
nhập khẩu từ các nước tiên tiến. Khi được hỏi về nguyên nhân tại sao các doanh nghiệp
không áp dụng công nghệ chế biến ướt cho sản phẩm cà phê các chủ doanh nghiệp điều
cho rằng nhu cầu về sản phẩm này không lớn. Mặt khác, chế biến ướt đòi hỏi nguyên
liệu quả tươi chất lượng cao (tỉ lệ quả chín đạt hơn 95%) một điều khó có thể đạt được
trong điều kiện người dân thường có thói quen thu hoạch khi còn xanh. Hiện tại chỉ có
một số doanh nghiệp có điều kiện quản lý tốt thời gian thu hái sản phẩm (chủ yếu là
những diện tích giao khoán cho nông trường viên) vẫn còn duy trì được việc chế biến
ướt. Tuy nhiên, tỉ lệ sản phẩm được chế biến theo công nghệ này còn quá nhỏ so với
tổng lượng cà phê nhân được sản xuất hàng năm. Về phần mềm chuyên nghiệp phục vụ
quản lý doanh nghiệp, qua trao đổi cho thấy chưa có doanh nghiệp nào quan tâm đến
vấn đề này. Đa số các doanh nghiệp mới dùng ở mức độ sử dụng các công cụ này trong
quản lý văn bản.
d) Sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp: Đối với doanh nghiệp nói chung và
doanh nghiệp nông lâm nghiệp nói riêng, sản phẩm thể hiện linh hồn sống đảm bảo sự
tồn tại và phát triển. Các doanh nghiệp nông lâm nghiệp rất đa dạng về loại hình sản
phẩm. Cho nên nhóm nghiên cứu chỉ xét những khía cạnh chung nhất về sản phẩm của
doanh nghiệp như tính đa dạng, thương hiệu, hay giá thành so với các đối thủ.
- Tính đa dạng hoá sản phẩm trong doanh nghiệp: Trong quá trình phát triển các
doanh nghiệp luôn có hướng chọn cho mình một vài nhóm sản phẩm chiến lược. Tuy
nhiên, thực tế sản xuất kinh doanh cho thấy những sản phẩm đó chỉ mang tính tương
đối, tức là không thể bán mãi “bức tranh chùa một cột” mà nó đòi hỏi sự đa dạng về
chiều sâu cũng như chiều rộng theo nhu cầu và thị hiếu của các đối tượng khách hàng
khác nhau. Điều đó sẽ tạo cho doanh nghiệp tránh được rủi ro trong kinh doanh và sử
dụng nguồn lực hiệu quả hơn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp
nông lâm nghiệp khi sản phẩm và dịch vụ thường gắn liền với những cây trồng vật nuôi
có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài đòi hỏi những khoản đầu tư nhất định trước khi cho
sản phẩm kinh doanh như cây lâu năm, đại gia súc, v.v
10
Trong các doanh
nghiệp điều tra đã xuất
hiện xu thế đa sở hữu đa
ngành nghề nhằm giảm
thiểu rủi ro trong sản
xuất kinh doanh. Một số
doanh nghiệp tại thành
phố Hồ Chí Minh tuy
chuyên doanh trong xuất
nhập khẩu lúa gạo nhưng
cũng đã vươn ra những
lĩnh vực như kinh doanh
địa ốc, khách sạn v.v
Đồ thị 1. Tỉ lệ sản phẩm chính so tổng doanh thu của
DN
Dưới 5%
1.1%
Từ 51-70%
18.2%
Từ 71-85%
18.2%
Từ 86-95%
21.6%
Trên 95%
40.9%
Một số doanh nghiệp trong ngành cà phê cũng có xu hướng đa dạng hóa sản xuất
kinh doanh như: sản xuất lúa và tôm sú (Công ty cà phê 719); sản xuất và chế biến hạt
điều (Công ty cà phê Chư Quynh); sản xuất ca cao (Công ty cà phê Buôn Hồ) hay nuôi
bò thịt (Công ty cà phê 715a). Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp này chưa nhiều. Số
liệu điều tra cho thấy đa số các doanh nghiệp có tỉ lệ giá trị sản phẩm chính trong tổng
doanh thu hàng năm lớn hơn 85%. Con số doanh nghiệp có tỉ lệ sản phẩm chính trong
tổng doanh thu nhỏ hơn 50% chỉ ở mức gần 1,15%. Các doanh nghiệp có xu hướng đa
dạng hoá sản phẩm cao là công ty TNHH, cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Sản phẩm
chính của gần ½ số doanh nghiệp cổ phần chỉ chiếm ở mức dưới 70% so với tổng
doanh thu. Con số này của doanh nghiệp tư nhân là 50%. Điều này giải thích phần nào
các loại hình doanh nghiệp này ứng phó linh hoạt hơn khi có những biến động trong sản
xuất kinh doanh. Tỉ lệ này là dưới 15% đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế Nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp
trong thành phần kinh tế này lúng túng khi có những biến động về giá cả thị trường.
Hộp 1. Một chiến lược phát triển doanh nghiệp bền vững
Chúng tôi gặp lại ông chủ doanh nghiệp này tại một địa điểm mới có phần chật hẹp hơn
(hình như là địa điểm thuê của hộ gia đình) so với cơ sở khang trang trước đây 2 năm. Do
là cuộc gặp mặt giữa những người đã quen nên cuộc trao đổ có phần cởi mở hơn. Hiện tại
công ty kinh doanh lương thực của ông đã trở thành công ty TNHH Nhà nước một thành
viên. Người tổng giám đốc này cho biết cơ sở cũ đang được xây dựng 15 tầng để có thể
mở rộng các dịch vụ kinh doanh địa ốc và văn phòng cho thuê. Bên cạnh những hoạt
động sản xuất kinh doanh lương thực công ty đã mở ra nhiều dịch vụ khác như san nền,
địa ốc và khách sạn (hiện công ty đang có một khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao). Tôi nhận
thấy đội ngũ cán bộ của ông được đổi mới khá cơ bản, chủ yếu là những người trẻ có
năng lực kỹ năng và thật năng động. Khi được hỏi liệu ông có nghĩ là doanh nghiệp mình
sẽ bỏ kinh doanh lúa gạo trong một vài năm tới ông chỉ mỉm cười không nói gì. Sự im
lặng của ông có lẽ nói lên nhiều điều hơn. Đó có thể là chiến lược đa sở hữu và đa ngành
sẽ giúp doanh nghiệp phát triển năng động và bền vững hơn
Nhóm nghiên cứu TP. Hồ Chí Minh
11
Mặt khác, các doanh nghiệp trong ngành hầu như còn ở trong tình trạng xuất
khẩu nguyên liệu thô hay sơ chế. Thị trường giá trị gia tăng cao đối với các sản phẩm
như gạo chế biến hấp xấy hay cà phê bột/hòa tan còn hạn chế, chưa kể đến việc thâm
nhập thị trường bán lẻ tại các nước nhập khẩu như sản phẩm cho các siêu thị, v.v
- Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp: Một chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập là giá thành sản phẩm so với
các đối thủ cạnh tranh. Nhóm nghiên cứu đã trao đổi với doanh nghiệp để có thể xác
định mức độ chênh lệch giá thành so với những đối thủ cạnh tranh trong tỉnh, ngoài tỉnh
và nước ngoài. Điều đáng ngạc nhiên là tỉ lệ chủ doanh nghiệp không biết được giá
thành của doanh nghiệp đang đứng ở vị trí nào so với đối thủ cạnh tranh còn khá cao.
Hơn 60% số doanh nghiệp chưa xác định được giá thành của mình ở mức nào so với
các doanh nghiệp nước ngoài và xấp xỉ 27% số doanh nghiệp chưa thể so sánh giá
thành của mình với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh khác. Điều đáng nhấn
mạnh ở đây là vẫn còn tới 9,1% số doanh nghiệp được hỏi chưa biết được giá thành của
mình như thế nào so với các doanh nghiệp khác cùng địa bàn (tỉnh). Tỉ lệ này cao dần
khi được hỏi về các đối thủ ngoài tỉnh và ngoài nước. Tỉ lệ các doanh nghiệp không xác
định được giá thành của mình so với đối thủ trong tỉnh khá cao. Đối với doanh nghiệp
Nhà nước Trung ương và Công ty cổ phần là 30%; doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước
địa phương là 33%. Thậm chí hơn ½ số doanh nghiệp được hỏi tại tỉnh Gia Lai và Đắk
Lắk không xác định được giá thành của mình như thế nào so với đối thủ ngoài tỉnh.
Điều đó phản ánh phần nào hạn chế của các chủ doanh nghiệp trong việc tiếp cận thông
tin trong và ngoài nước cũng như quan niệm về kinh doanh chưa được đổi mới.
- Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp: Một chỉ tiêu không kém phần quan
trọng trong quá trình cạnh tranh của doanh nghiệp. Số lượng điều tra cho thấy mới gần
1/3 lượng sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất ra đạt chất lượng tốt. Có ưu thế về
chỉ tiêu này là các doanh nghiệp Nhà nước địa phương và công ty TNHH. Tỉ lệ sản
phẩm ở chất lượng kém còn cao ở các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương (chiếm tới
20%) trong khi con số này ở các loại hình doanh nghiệp khác chỉ dao động ở mức
2-6%. Nếu xét về ngành hàng con số tổng hợp cho thấy, ngành lương thực chủ yếu đạt
tiêu chuẩn chất lượng khá và trung bình, chiếm tới 80% lượng sản phẩm. Điều này phản
ánh phần nào đặc điểm sản xuất của nền sản xuất lúa theo mô hình hộ nông dân tác
động đến việc quản lý và nâng cao chất lượng gạo thành phẩm của các doanh nghiệp.
Con số này đối với ngành hàng cà phê được cải thiện do việc sản xuất có tập trung hơn.
Tuy nhiên, sản phẩm chất lượng kém cũng chiếm tỉ lệ không nhỏ gần 18%. Tuy nhiên,
nguyên nhân theo các doanh nghiệp cho biết chủ yếu là do qui trình thu hoạch và bảo
quản sản phẩm gây lên. Chẳng hạn đối với ngành lúa gạo, phần sản xuất gạo nguyên
liệu điều do người dân đảm nhiệm, mà ở đó các qui trình kỹ thuật chăm sóc và thu
hoạch chưa được chú ý. Các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu sản phẩm này thường
huy động nguồn nguyên liệu trôi nổi trên thị trường và qua thương lái nên việc quản lý
chất lượng khó có thể đảm bảo về giác độ cùng giống và khối lượng lớn. Do vậy đối
với những hợp đồng với lô hàng gạo chất lượng cao các doanh nghiệp thường ít khi
thực hiện tốt. Đối với ngành hàng cà phê mặc dù có vùng nguyên liệu tập trung hơn
nhưng chất lượng lại bị hạn chế bởi qui trình thu hái (thường là thu hoạch quả xanh) và
công nghệ chế biến (tỉ lệ chế biến theo công nghệ ướt rất ít). Theo một số chủ doanh
nghiệp cho biết hiện tại người dân có xu hướng thu hoạch sớm (thường vào tháng 11-12
khi quả còn xanh) hơn trước kia (vào dịp Tết âm lịch khi quả đã chín rộ) làm giảm hẳn
chất lượng cà phê chế biến nhất là phục vụ công nghệ chế biến ướt. Trên thực tế chỉ còn
12
những diện tích do các công ty chỉ đạo chặt chẽ khâu thu hoạch mới đáp ứng được
nguồn nguyên liệu cho công nghệ chế biến này.
- Thương hiệu sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp: Đây là điều kiện quan trọng
đối với doanh nghiệp khi hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nó đảm bảo uy
tín của doanh nghiệp với tư cách như là một thể nhân ra vào thị trường. Với xu thế của
toàn cầu hoá thì thương hiệu ngày càng trở lên quan trọng đối với sự sống còn của
doanh nghiệp. Số liệu điều tra cho thấy mới có 42% doanh nghiệp được hỏi đã đăng ký
nhãn hiệu sản phẩm. Doanh nghiệp liên doanh đi đầu trong vấn đề này. Sau đó là các
công ty cổ phần. Tuy nhiên, các doanh nghiệp mới đăng ký thương hiệu của mình tại
Việt Nam. Tỉ lệ doanh nghiệp có đăng ký thương hiệu trên thế giới còn quá khiêm tốn,
chưa đến 13% số doanh nghiệp điều tra. Con số này thể hiện sự lựa chọn của các doanh
nghiệp về chiến lược việc xây dựng thương hiệu sản phẩm có thể là thương hiệu riêng
hay mượn thương hiệu của doanh nghiệp khác nhằm giảm thiểu chi phí trong ngắn hạn
để xây dựng chiến lược thị trường dài hạn hơn. Đó cũng là đặc điểm của các doanh
nghiệp nông lâm nghiệp trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, cũng
cần nhấn mạnh rằng việc đăng ký chỉ là một khâu rất nhỏ trong việc duy trì thương hiệu
và sử dụng thương hiệu như là một công cụ đảm bảo tính cạnh tranh cao của doanh
nghiệp trên thị trường. Qua điều tra cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này. Một phần là do các doanh nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của thương
hiệu, một phần là đây là vấn đề mới các doanh nghiệp còn nhiều bỡ ngỡ trong xây dựng
thương hiệu. Đặc biệt một số doanh nghiệp cho rằng đó là một việc của Nhà nước (Bộ
ngành hay địa phương) mang tính quốc gia cần phải có chương trình đồng bộ và đầu tư
thích đáng. Có doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư xây dựng thương hiệu chứng chỉ ISO
nhưng do chi phí quá cao so với khả năng đầu tư nên đã bỏ. Trong thực tế còn nhiều
quan niệm khác nhau về xây dựng thương hiệu: thương hiệu quốc gia hay vùng nhưng
theo chúng tôi thương hiệu sản phẩm phải gắn liền với doanh nghiệp và là công cụ để
doanh nghiệp thể hiện hiệu quả SXKD của mình.
Hộp 2. Câu chuyện thương hiệu sản phẩm
e) Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp: Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng làm
nên sự khác nhau giữa các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy hai doanh nghiệp có thể có
Trong buổi làm việc với một công ty nọ, nhóm nghiên cứu được nghe ông giám đốc với
giọng nói rất tự hào rằng doanh nghiệp của mình đã có thương hiệu trên thị trường quốc
tế, nhất là thị trường khó tính như Hoa Kỳ. Ông nói rằng cà phê của doanh nghiệp ông đã
có thương hiệu tại thị trường này và lượng sản phẩm xuất sang thị trường này cũng tăng
nhanh trong thời gian gần đây. Với sự tò mò của người nghiên cứu chúng tôi xin phép
ông được xem những nhãn hiệu mà ông đã có trên thị trường này. Xem kỹ những bao bì
chúng tôi thấy đây là bao bì do các công ty nhập sản phẩm thiết kế và với dòng chữ
“Highlands Coffee” (cà phê vùng cao nguyên) thiếu nơi sản xuất hay chế biến từ nguyên
liệu của nước/công ty nào (tên hay địa chỉ ) thì người tiêu dùng khó có thể tưởng tượng
đó là sản phẩm của vùng Tây nguyên Việt Nam chứ chưa kể đó là sản phẩm của công ty
ông vì trên thế giới thiếu gì những vùng đất cao nguyên trồng cà phê. Cầm trên tay những
bao bì thiết kế khá hấp dẫn chúng tôi mừng cho doanh nghiệp của ông đã phần nào thâm
nhập được một thị trường khó tính nhưng để có một thương hiệu mạnh chắc còn nhiều
việc phải làm đối với doanh nghiệp trong tương lai.
Nhóm khảo sát tỉnh Đắk Lắk
13
cùng điều kiện về đất đai, tài chính, v.v nhưng với những cách nghĩ cách làm khác
nhau của người chủ doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ chắc chắn sẽ có những kết quả
khác nhau.
- Chủ doanh nghiệp: Trong số 88 chủ doanh nghiệp, nam chiếm 82,95% với độ
tuổi trung bình là 49 tuổi, một độ tuổi không phải là trẻ so với xu thế hội nhập hiện nay.
Người trẻ nhất là 30 tuổi và già nhất là 60 tuổi. Điều đáng nói ở đây là chỉ có 9/88 (hơn
10%) chủ doanh nghiệp có độ tuổi dưới 40 mà tập trung chủ yếu là các công ty tư nhân
và TNHH có qui mô nhỏ, trong khi những công ty lớn, nhất là doanh nghiệp Nhà nước
thì các giám đốc lại đã ở tuổi ngoài 55. Điều này hạn chế phần nào khả năng tiếp cận
với những yếu tố công nghệ và kỹ thuật của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là
tính năng động trong chiến lược kinh doanh. Giám đốc các doanh nghiệp liên doanh,
công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân thường là những người trẻ hơn, mới ở độ tuổi
46-48 có nhiều kinh nghiệm và kiến thức để quản lý các doanh nghiệp tốt hơn trong quá
trình hội nhập. Một điều đáng chú ý là tỉ lệ chủ doanh nghiệp mới đạt văn hóa cấp trung
học cơ sở còn cao (11-12% số người được phỏng vấn), chủ yếu là doanh nghiệp Nhà
nước Trung ương và doanh nghiệp tư nhân.
Xét về chuyên môn được đào tạo của các chủ
doanh nghiệp cho thấy tỉ lệ người có chuyên
ngành phù hợp với ngành nghề đang sản xuất kinh
doanh không phải là lớn. Tỉ lệ trái ngành nghề xẩy
ra lớn nhất ở các doanh nghiệp tư nhân (2/3 số
doanh nghiệp điều tra) và công ty TNHH (gần
43% số doanh nghiệp được hỏi). Mới có 35,2% số
chủ doanh nghiệp được đào tạo về các chuyên
ngành kinh tế và thương mại. Có tới gần 40% (cụ
thể là 39,8%) số chủ doanh nghiệp có chuyên môn
ít gắn với việc quản lý và điều hành hoạt động của
các doanh nghiệp nông nghiệp. Một điểm đáng
chú ý là phần lớn các giám đốc công ty TNHH có
chuyên ngành đào tạo không liên quan trực tiếp
đến các doanh nghiệp nông lâm nghiệp như kỹ
thuật công nghiệp, nông nghiệp, kinh tế hay
thương mại (chiếm gần ½ doanh nghiệp điều tra).
Đồ thị 2. Trình độ đào tạo của
chủ DN
Đến trung học
18%
Sơ cấp
18%
Trung cấp
22%
Cao đẳng/Đại
học
39%
Trên đại học
3%
Tuy nhiên, đa số các chủ doanh nghiệp được phỏng vấn đã có thời gian làm
giám đốc khá lâu. Với thâm niên công tác dài là yếu tố quan trọng để các lãnh đạo
doanh nghiệp có những kinh nghiệp công tác tốt, nhất là đối với đặc thù của ngành
nông nghiệp (sản xuất phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện tự nhiên cũng như đối tượng
lao động lại là những cây trồng vật nuôi). Tuy nhiên, đó cũng là yếu tố hạn chế tính
năng động của các chủ doanh nghiệp của thành phần kinh tế này trong quá trình đổi
mới đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế hiện tại và tương lai.Số chủ doanh
nghiệp có trình độ trên đại học vẫn còn quá ít (gần 3% số người được hỏi). Hơn nữa
vẫn còn tới 18% số chủ doanh nghiệp được đào tạo ở cấp trung học trở xuống. Số chủ
doanh nghiệp có trình độ đào tạo ở cấp sơ cấp và trung cấp vẫn ở mức 40%, tức hơn 1/3
số người được hỏi.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét