DANH MỤC BẢNG BIỂU
Phần I. GIỚI THIỆU VỀ CÁC ĐỒNG TIỀN CHỦ CHỐT TRÊN THẾ GIỚI
Các đồng tiền được coi là chủ chốt là do chúng chiếm tỷ trọng lớn trong các giao
dịch quốc tế và sự biến động của chúng sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền
tệ thế giới. Hiện nay các đồng tiền chủ chốt trên thế giới được công nhận bao gồm USD,
EUR, JPY, GBP. Bằng chứng là, năm 1996 tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường
quốc tế, phần đầu tư bằng USD chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật
chiếm 12%. Theo các tài liệu của Ngân hàng thanh toán quốc tế, phần vay bằng Đôla Mỹ
của các ngân hàng trên thị trường quốc tế chiếm 30% và bằng Yên Nhật 13%, còn phần tiền
gửi bằng ngoại tệ tương ứng là 43%, 34% và 8%. Tính đến thời điểm năm 2008, gần 50%
giá trị xuất nhập khẩu của thế giới thanh toán qua đồng USD và USD chiếm 40% khối
lượng buôn bán ngoại tệ, các đồng tiền Châu Âu chiếm 35% và đồng Yên Nhật là 10%
1
.
SDR được định nghĩa theo các điều kiện của một rổ tiền tệ, bao gồm các loại tiền tệ chính
được sử dụng trong thương mại và tài chính quốc tế. Tỷ lệ mỗi loại tiền tệ tạo ra một SDR
được chọn theo tầm quan trọng tương đối của nó trong thương mại và tài chính quốc tế.
Việc xác định loại tiền tệ trong rổ SDR và tỷ lệ của nó do Ban lãnh đạo của IMF thực hiện
sau mỗi 5 năm.
Bảng 1: Tỷ lệ của các loại tiền tệ trong giai đoạn từ 2000 tới 2010
2
1
GS, TS Võ Thanh Thu, Giáo trình Quan hệ tài chính quốc tế, NXB Thống Kê 2008, trang 385
2
IMF
5
USD EUR JPY GBP
2001–2005 45% 29% 15% 11%
2006–2010 44% 34% 11% 11%
1. Đồng đô la Mỹ (USD)
Từ đô la không có ý nghĩa nào trong bất cứ ngôn ngữ la tinh nào, lúc đầu nó xuất
hiện ở Châu Âu, sau đó 06/1775 Đại hội quốc dân Mỹ quyết định lấy đồng Đôla bằng kim
loại hỗn hợp giữa bạc và vàng và cho đến thời kỳ nội chiến 1861-1865 đồng tiền đô la giấy
mới xuất hiện. Nhưng những đồng Đôla này được đảm bảo bằng vàng và tự do chuyển đổi
thành vàng 35USD/ 1 ounce. Đồng Đôla Mỹ trong lịch sử phát triển của mình đều tăng giá,
mãi đến 1934 lần đầu tiên nó bị mất giá và liên tục trong 60 năm qua đồng đô la Mỹ bị mất
giá đến 10 lần (1 đô la Mỹ năm 1993 chỉ bằng 10 xu Mỹ năm 1933). Năm 1971 chính phủ
Mỹ tuyên bố bãi bỏ chế độ đổi đô la lấy vàng và tỷ giá cố định của đồng đô la bị bãi bỏ.
Những năm cuối thế kỷ 20 dưới thời tổng thống Mỹ Bill Clinton nền kinh tế Mỹ
mạnh hơn, đồng đô la Mỹ lên giá so với các loại tiền tệ khác. Nhưng sang đầu thế kỷ 21,
dưới thời tổng thống Bush, đặc biệt sau cuộc khủng bố tấn công vào nước Mỹ 11/9/2001,
thị trường tài chính Mỹ lâm vào khó khăn kinh tế tài chính. Sau gần 8 năm mở cuộc chiến
tranh tại Iraq, Mỹ đã bỏ gần 3000 tỷ USD cho cuộc chiến, thêm vào đó do chính sách cho
vay tiền để xây nhà và đầu cơ vào bất động sản dễ dãi trong 5 năm (2003-2008), đồng đô la
Mỹ bị mất giá bình quân 25% so với các đồng ngoại tệ mạnh cơ bản khác. Ngoài ra, chính
phủ Hoa Kỳ cố ý chủ trương duy trì đồng đô la yếu nhằm kích thích xuất khẩu, giảm nhập
siêu, thu hút khách du lịch đến Mỹ, cũng là những nhân tố quan trọng làm mất giá USD.
Biểu đồ 1: % thay đổi giá trị của GBP, EUR, JPY so với USD giai đoạn 2000 - 2010
6
(Nguồn : www.oanda.com)
Đồng Đôla Mỹ yếu thúc đẩy xu hướng đa dạng hóa sử dụng các đồng tiền ngoại tệ
mạnh khác và vàng làm dự trữ tiền tệ quốc gia và quốc tế. Tuy vậy, đồng USD yếu sẽ ảnh
hưởng rất nghiêm trọng đến khả năng phục hồi của nền kinh tế thế giới, ảnh hưởng không
chỉ đến các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển.
Đặc biệt nếu USD yếu, khả năng phục hồi kinh tế của châu Âu sẽ gặp rất nhiều khó
khăn. Vì vậy, ngân hàng trung ương các nước đều thống nhất là tìm cách phục hồi dần giá
trị của USD.
2. Đông Yên Nhật (JPY)
Đồng Yên được ngân hàng Nhật Bản phát hành năm 1895 có thể đổi lấy bạc trong
giai đoạn 1897-1917, có thể đổi lấy vàng trong giai đoạn 1929- 1933. Ngày nay đồng Yên
Nhật không thể trực tiếp quy đổi ra vàng nhưng đồng Yên ngày càng lên giá (lên giá gần 4
lần so với cách đây 20 năm). Cùng với sự phát triển của kinh tế Nhật, vị trí đồng Yên ngày
càng có vai trò lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới, đặc biệt các nước trong khu vực Châu Á
Thái Bình Dương.
Năm 1997-1998 nên kinh tế Nhật Bản bị suy thoái nặng nề, chỉ riêng 6 tháng đầu
năm 1998 đồng Yên Nhật bị mất giá 15% so với đồng đô la Mỹ. Sự mất giá của đồng Yên
Nhật đe dọa kinh tế đối ngoại của nhiều nước trong đó có Việt Nam.
Ba năm gần đây 2006-2008, kinh tế Nhật Bản đã bước ra khỏi trì trệ kéo dài và tăng
trưởng ở mức 2-3% và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai sau Hoa Kỳ. Đồng Yên Nhật lên
7
giá mạnh so với đồng đô la Mỹ đã tác động nhất định đến hoạt động xuất nhập khẩu của
Nhật Bản.
3. Đồng Bảng Anh (GBP)
Cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ 20 cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Anh,
đồng Bảng Anh là đồng tiền mạnh được đảm bảo bằng vàng và được tự do chuyển đổi.
Nhưng ngày nay sau nhiều năm liên tục nền kinh tế Anh bị suy thoái thì uy tín và vai trò
của đồng Bảng Anh trên thị trường tiền tệ thế giới bị giảm sút, đặc biệt từ khi đồng Bảng
Anh rút ra khỏi hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS). Từ năm 2000 đến 2008 đồng Bảng Anh
lên giá mạnh so với đồng đô la Mỹ , thời điểm cao nhất vào tháng 11/2007 tỷ giá
USD/GBP là 2.0907, và đến nay GBP mất giá so với USD.
4. Đồng Euro (EUR)
Thập niên 70 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, hệ thống bản vị lấy
vàng làm gốc bảo đảm giá trị tiền tệ bị xóa bỏ, 2 nước Đức và Pháp đề xuất thành lập ‘hệ
thống tiền tệ Châu Âu ‘ lập ra tiền tệ thanh toán chung của 9 nước thành viên EEC lúc bấy
giờ gọi là đồng ECU ( European Currency Unit). Đồng Ecu được hình thành năm 1979 từ
nhiều đồng tiền tệ của các nước hội viên theo phương pháp rổ tiền tệ. Chức năng nhiệm vụ
của đồng Ecu lúc bấy giờ tương tự như đồng SDR, nó chỉ là một chỉ số cho biết tỷ giá
chuyển đổi giữa các đồng tiền của các quốc gia thuộc EMU (liên minh tiền tệ kinh tế).
Năm 1995 tại hội nghị thượng đỉnh Madrid quyết định cho ra đời đồng Euro thay
thế đồng Ecu. Tháng 5/1998, tại Bruxell, Hội đồng Châu Âu đã công bố sự ra đời liên minh
kinh tế và tiền tệ Châu Âu (EMU) gồm 11 nước thành viên , thành lập Ngân hàng trung
ương Châu Âu chính thức chịu trách nhiệm vận hành một chính sách tiền tệ chung của Liên
minh từ ngày 1/1/2009. Từ ngày 1/1/1999, đồng Euro chính thức đi vào lưu hành với đầy
đủ tư cách của 1 đồng thực, chung và duy nhất cho 11 quốc gia thuộc EMU. Từ tháng
1/2000, Hy Lạp là thành viên thứ 12 gia nhập EMU. Tuy nhiên các giao dịch bằng đồng
Euro chỉ giới hạn trong các giao dịch ngân hàng không dùng tiền mặt đối với tất cả các
nước thành viên.
Giai đoạn từ 1/1/1999 đến 1/1/2000 là giai đoạn chuyển đổi của đồng Euro trong lưu
thông không dùng tiền mặt, được tiến hành thông qua tỷ giá chuyển đổi song phương cố
định vĩnh viễn từ các đồng bản tệ thuộc 12 nước thành viên sang Euro. Từ ngày 1/1/2002,
8
đồng Euro được chính thức đưa vào lưu thông. Khoảng 60 tỷ đồng tiền giấy và 37 tỷ tiền
xu đã được phát hành trên khắp 12 nước thuộc khu vực EMU. Công cuộc đổi tiền đã được
diễn ra liên tục trong 6 tháng và kết thúc vào 30/6/2002. Trong vòng 6 tháng, tại 12 nước
thuộc khu vực đồng tiền trong lưu thông tiền tệ : đồng bản tệ và đồng Euro. Tuy nhiên các
đồng bản tệ chỉ được coi là một biểu hiện khác của đồng Euro. Kể từ ngày 1/7/2002, các
đồng bản tệ của 12 nước thành viên đã kết thúc lịch sử tồn tại của mình, rút khỏi lưu thông
và chính thức nhường chỗ hoàn toàn duy nhất cho đồng Euro lưu hành hợp pháp. Đến nay
đồng Euro đã chính thức tồn tại ở 16 quốc gia và sử dụng không chính thức tại 3 quốc gia.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, dự trữ ngoại tệ của thế giới
ở đồng Euro liên tục gia tăng : năm 2001 là 13%, năm 2002 là 16,4%, năm 2003 là 18,7%,
tháng 9/2007 là 26,4%
3
. Sự ra đời của đồng Euro làm thay đổi cục diện của các đồng tiền
mạnh trên thế giới, làm cho hoạt động tài chính và thương mại thế giới ít lệ thuộc hơn vào
đồng đô la Mỹ.
Phần II: TỶ GIÁ JPY/USD
2.1. Diễn biến tỷ giá JPY/USD giai đoạn 2005 đến nay và những nguyên nhân
Biểu đồ 2. 1: Tỷ giá JPY/USD từ năm 2005 đến nay
3
GS, TS Võ Thanh Thu, Giáo trình Quan hệ tài chính quốc tế, NXB Thống Kê 2008, trang 385
9
Căn cứ vào biểu đồ trên có thể phân diễn biến tỷ giá thành các giai đoạn như sau:
Năm 2005 - 6/2007: tỷ giá có xu hướng chính là tăng
Từ tháng 7/2007 - 3/2008: xu hướng chính là tỷ giá giảm mạnh
Tháng 7 – 8/2007: tỷ giá giảm mạnh
Tháng 9 – 10/2007: tỷ giá tăng nhẹ
Tháng 10/2007 - 3/2008: tỷ giá giảm mạnh
Tháng 4/2008 đến nay: tỷ giá giao động nhưng chủ đạo vẫn giảm dần
+ Tháng 3 đến tháng 8/2008: tỷ giá tăng mạnh
+ Tháng 9 đến tháng 12/2008: tỷ giá giảm mạnh
+ Năm 2009 – 2010: tỷ giá lên vào đầu năm và giảm dần đến cuối năm
• Giai đoạn từ năm 2005 đến tháng 6/2007
Từ cuối năm 2004, đồng Đôla trở nên yếu hơn so với tất cả các ngoại tệ khác trong
rổ tiền tệ chính, trong đó có đồng Yên Nhật. Sang năm 2005, cùng với sự mạnh lên tương
đối của nền kinh tế Mỹ và chênh lệch lãi suất ngắn hạn với đồng EUR và JPY, đồng USD
đã tăng giá trở lại. Đầu tháng 1/2005, tỷ giá JPY/USD đạt mức thấp nhất là 101,67 nhưng
ngay sau đó đồng Yên lại giảm giá so với đồng Đôla. Tỷ giá JPY/USD liên tục tăng. Ngày
21/7, đồng Nhân dân tệ CNY được định giá lại so với đồng USD. Từ năm 1997 đến ngày
21/7/2005, đồng CNY luôn được neo cố định với USD tại mức tỷ giá 8,28 CNY/USD.
Theo nhận xét của Hiệp hội các doanh nghiệp của Mỹ (NAM), CNY đã bị giảm đi đến 40%
giá trị thực tế của nó, điều này đã tạo môi trường kinh doanh không công bằng, thiếu tính
cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Mỹ. Trung Quốc trở thành “miếng nam châm” hút một
lượng lớn ngoại tệ trên thế giới. Trước tình hình này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn
khác của Trung Quốc đã gây sức ép để buộc đồng nhân dân tệ phải tăng giá. Cuối cùng
Trung Quốc đã phải điều chỉnh tỷ giá xuống còn 8,11 CNY/USD. Trong khi đó, Trung
Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Nhật trên thị trường thế giới. Khi Trung Quốc định
giá lại hoặc thả nổi giá trị của đồng Nhân dân tệ (tức là cho phép đồng tiền này cao hơn và
gần với giá trị thực tế hơn) xúât nhập khẩu của Nhật sẽ cạnh tranh được tốt hơn trên thị
trường Mỹ và đồng tiền Nhật sẽ tăng giá. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của
10
Nhật Bản hiện nay, chiếm 20.1% tổng thương mại của Nhật năm 2004 đạt 206.56 tỷ USD
và là nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường Nhật Bản. Những đại công ty của Nhật Bản
cũng bành trướng rất nhanh vào thị trường Trung Quốc. Năm 2004, Nhật Bản đã đầu tư
66,6 tỷ USD vào Trung Quốc; 50% tổng xuất khẩu của Nhật Bản là cho thị trường Trung
Quốc. Do vậy, việc điều chỉnh tỷ giá CNY/USD làm tỷ giá JPY/USD cũng giảm tạm thời.
Tuy nhiên ngay sau đó đã tăng trở lại. Đến tháng 12, tỷ giá JPY/USD đạt mức cao nhất kể
từ tháng 3/2003, ở mức 121,40, và giảm đến 16% so với mức 101,67 hồi đầu tháng 1.
Đặc biệt, khi FED tăng lãi suất cơ bản lên 5% vào ngày 10/5/2006, thị trường đã có
những phản ứng trái chiều so với trước đây: USD mất giá, JPY cũng như các ngoại tệ khác
đều lên giá. Trong khi FED liên tục tăng lãi suất cơ bản thì Ngân hàng trung ương Nhật
Bản vẫn duy trì mức lãi suất thấp (0%). Trên lý thuyết, khi chênh lệch lãi suất giữa Mỹ và
Nhật càng gia tăng thì tỷ giá JPY/USD cũng tăng theo. Các nhà đầu tư sẽ vay ở thị trường
Nhật với lãi suất thấp để đầu tư vào Mỹ nhằm hưởng mức lợi suất cao hơn. Điều này tạo
nên trạng thái “carry trade” trên thị trường. Tuy nhiên vào thời điểm này, thay vì tăng giá,
đồng USD lại giảm giá do tác động của dự báo là chu kỳ tăng lãi suất cơ bản của FED đã
kéo dài 20 tháng (từ năm 2005) sắp kết thúc. Thêm vào đó, thâm hụt tài khoản vãng lai của
Mỹ đã ở mức kỷ lục là 224,9 tỷ USD vào Quý IV năm 2005. Trường hợp sự thâm hụt này
tiếp tục tăng lên cũng đồng nghĩa với việc đồng USD cần phải được chuyển đổi nhiều hơn
sang các đồng tiền khác để chi trả cho hàng nhập khẩu. Trong khi đó, báo cáo của Cục
Thương mại bán lẻ Mỹ cho thấy doanh số bản lẻ tháng 4 tăng trưởng thấp hơn so với tháng
3 (0,5% so với 0,6%), và thấp hơn nhiều so với kỳ vọng của thị trường. Doanh số bán lẻ
chiếm gần một nửa tổng chi tiêu dùng tại Mỹ, trong đó, chi tiêu dùng chiếm tới 2/3 nền
kinh tế. Do đó, doanh số bán lẻ tăng thấp cũng đồng nghĩa với việc kinh tế Mỹ cần một
chính sách tiền tệ nới lỏng hơn để thúc đẩy tăng trưởng Tính đến ngày 10/5, giá USD đã
giảm 7,67% so với đồng euro, 9,12% so với đồng bảng Anh và 5,45% so với đồng yên.
Biểu đồ 2. 2: Mối quan hệ giữa tỷ giá JPY/USD và chênh lệch lãi suất giữa 2 quốc gia
11
(Nguồn: Reuters Ecowin)
Từ đầu năm 2007, đồng đồng Yên Nhật liên tục giảm giá so với USD với những đợt
giảm vào tháng 2 và tháng 6. Tháng 6/2007, tỷ giá JPY/USD là 124.14, cao nhất trong vòng
5 năm liên tiếp. JPY tiếp tục đà giảm giá trên thị trường do chịu áp lực bởi sắc xanh của thị
trường chứng khoán thế giới và sự gia tăng nhu cầu vay vốn ở các ngân hàng Nhật để đầu
tư vào những tài sản có tỷ suất sinh lợi cao (do chi phí vay vốn giảm). Vốn mang danh là
đồng tiền “carry trade” (được vay do có lãi suất thấp để đầu tư vào các tài sản có tỷ suất
sinh lợi cao hơn) nên khi các nhà đầu cơ dự đoán chính xác Ngân hàng Trung ương Nhật
Bản có ý định giữ nguyên lãi suất cơ bản đồng JPY (0,25%/năm), làn sóng vay đồng JPY
trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, từ đó gây ra áp lực khiến đồng tiền này giảm giá liên tục
trên thị trường.
• Giai đoạn từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2008
Trong 2 tháng 7 và 8 năm 2007, đồng Yên Nhật liên tục tăng với tốc độ nhanh so
với USD, cụ thể 2/7/2007 tỷ giá JPY/USD đạt: 123.3959 đến ngày 13/8/2007 tỷ giá rơi
xuống mức kỉ lục là 113.9991. Đây là mức giá cao nhất của đồng Yên so với USD kể từ
tháng 4/2007, tuy nhiên so với cùng kì năm 2006 Yên hiện vẫn đang giảm giá.
12
Nguyên nhân chính tác động đến tỷ giá JPY/USD trong thời gian này là do khủng
hoàng của nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư vào đồng Yên Nhật.
Cụ thể: Theo báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, kinh tế Mỹ đang phục hồi kém khả
quan, chỉ tăng 2%, thấp hơn so với 2.8% dự đoán đầu năm 2007 và so với tốc độ tăng 3.3%
năm 2006. Hơn nữa, nợ khó đòi của nhiều ngân hàng Mỹ trong việc cho vay cầm cố để
kinh doanh bất động sản đang có dấu hiệu tăng, thị trường bất động sản Mỹ ở mức trì trệ.
Theo Hiệp hội kinh doanh bất động sản Mỹ, lượng nhà mới bán ra ở Mỹ tháng 7 giảm so
với tháng trước và ở mức thấp hơn so với mức dự đoán của thị trường. Thị trường nhà ở đã
kéo theo thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nghiêm trọng, biểu hiện bởi sự sụt giảm của
hàng loạt chỉ số chứng khoán chính của Mỹ. Tình trạng khủng hoảng này dẫn tới nguy cơ
suy thoái khả năng thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài của các thị trường tín dụng của
Mỹ, vốn là yếu tố quan trọng giúp nước này bù đắp cho tình trạng thâm hụt cán cân thương
mại của mình. Lo ngại trước tác động của tình trạng khủng hoảng thị trường cầm cố thế
chấp của Mỹ lan rộng hơn, nhiều công ty Nhật, nhiều nhà đầu tư tăng cường chuyển vốn từ
USD sang JPY. Thêm vào đó, sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán châu Á đã thúc đẩy
các nhà đầu tư cắt giảm việc tận dụng vay đồng Yên với lãi suất thấp, tăng cường bán ra
đồng Đôla Mỹ và các đồng tiền có lợi tức cao hơn đồng Yên Nhật. Diễn biến này cũng hỗ
trợ cho sự tăng giá của đồng JPY.
Hai tháng sau đó 9/2007 và 10/2007 tỷ giá JPY/USD chuyển hướng tăng nhẹ từ
113.3401 lên 116.918, khiến đồng Yên Nhật giảm giá trở lại so với USD.
Nguyên nhân chính được cho rằng sau sự can thiệp của FED và ECB giúp thị
trường chứng khoán Mỹ phục hồi phần nào và làm lắng dịu các lo ngại về thị trường tài
chính toàn cầu. Các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư trở lại vào đồng đôla Mỹ.
Biểu đồ 2. 3: tăng trưởng GDP của Mỹ và Nhật Bản từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2008
13
(Nguồn: www.tradingeconomics.com)
Sau khi tỷ giá JPY/USD tăng đến đỉnh điểm vào tháng 10/2007 thì tỷ giá những
tháng sau đó bắt đầu tụt giảm mạnh trong những tháng cuối năm 2007 đến tận tháng 3 năm
2008. Cụ thể như sau: tháng 11/2007 tỷ giá đạt 108.1783, sau đó tiếp tục giảm còn
106.9977 vào tháng 1/2008, đến tháng 3/2008 tỷ giá đã rơi xuống mức thấp đáng kể chỉ ở
mức 99.2064. Sở dĩ đồng Yên Nhật tăng giá trở lại và đạt ở mức cao nhất so với năm 2007
do sự can thiệp của ECB và FED đến nền kinh tế Mỹ vẫn bị hạn chế bởi các yếu tố khác
nên chưa thể đem lại sự phục hồi hoàn toàn cho kinh tế Mỹ. Cụ thể, lãi suất USD lúc này
đang ở mức quá cao và khó có thể điều chỉnh tăng thêm nhiều nữa để giúp đồng USD tăng
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét