GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Việt Nam có biên giới đất liền dài 3.730 km. Phía Bắc giáp nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa với chiều dài biên giới 1.150 km. Phía Tây giáp Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào trên chiều dài biên giới 1.650 km và giáp Vương quốc Cămpuchia -
930 km. Qua biển Đông và vịnh Thái Lan là Cộng hòa Philippin, Cộng hòa Inđônêxia,
Cộng hòa Singapo, Cộng hòa Brunây và Liên bang Malaixia.
Ngoài ra, có bờ biển dài 3260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng
1 triệu km
2
. Vùng biển nước ta có nguồn lợi hải sản khá phong phú, cho phép khai thác
hàng năm 1,2 – 1,4 triệu tấn. Nước ta có nhiều ngư trường, trong đó 4 ngư trường trọng
điểm là : ngư trường Minh Hải – Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận –
Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư trường quần đảo
Hoàng Sa - quần đảo Trường Sa.
3.1.2. Điều kiện tự nhiên:
a) Khí hậu:
Do tính chất dài và hẹp của lãnh thổ, Việt Nam mang đặc tính của một
bán đảo, ảnh hưởng của biển len lỏi đến khắp nơi. Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới
nên khí hậu chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa châu Á (chủ yếu là gió mùa
Đông Bắc và Đông Nam). Lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.500 - 2.000 mm.
Độ ẩm trên dưới 85%. Chế độ gió mùa cũng làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của thiên
nhiên Việt Nam thay đổi. Nhìn chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một
mùa tương đối lạnh, ít mưa. Riêng khí hậu của các tỉnh phía Bắc (từ đèo Hải Vân trở ra
bắc) thay đổi theo bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Do ảnh hưởng gió mùa, hơn nữa sự
phức tạp về địa hình nên khí hậu của Việt Nam luôn luôn thay đổi trong năm, từ giữa
năm này với năm khác và giữa nơi này với nơi khác (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên
cao).
b) Địa hình:
Đại bộ phận lãnh thổ được bao trùm bởi đồi núi, có nơi núi đâm ra sát
biển, thậm chí còn lan ra biển. Hướng núi chủ yếu là Tây Bắc - Đông Nam. Núi không
cao nhưng hiểm trở, chia cắt địa hình thành nhiều vùng với những đặc thù riêng. Địa
hình Bắc Bộ giống như chiếc rẻ quạt, ba phía Tây, Bắc và Đông đều là đồi núi, phía
Nam là bờ biển và ở giữa là đồng bằng. Địa hình Trung Bộ chạy dài và hẹp; đồi núi,
đồng bằng và bờ biển xâm nhập lẫn nhau. Địa hình Nam Bộ ít phức tạp hơn và tương
đối bằng phẳng. Nhìn chung, các vùng đồng bằng ven biển đều có diện tích không lớn.
c) Biển:
Việt Nam có ba mặt giáp biển, đông và nam giáp biển Đông (thuộc Thái
Bình Dương) mà phần ăn sâu vào Việt Nam là vịnh Bắc Bộ, Tây nam giáp vịnh Thái
Lan. Bờ biển Việt Nam trải dài hơn 3.260 km, uốn lượn - chỗ nhô ra tạo nên bán đảo
nhỏ, chỗ vòng lại hình thành vùng vịnh và cảng lớn. Trung bình khoảng 20 km chiều dài
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
5
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
bờ biển có một cửa sông thông ra biển. Các cửa sông này chịu ảnh hưởng của chế độ
thuỷ triều khá phức tạp. Ngoài những con sông chảy trực tiếp vào biển, có một số sông
chảy qua các đầm phá lớn như phá Tam Giang, Cầu Hai, Lăng Cô, Ô Loan, Thị Nại.
d) Sông ngòi:
Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 2.860 sông ngòi lớn nhỏ, nhìn chung
chảy xiết, do vậy thường làm xói mòn địa hình.
Việt Nam có nhiều hồ tự nhiên như Hồ Tây (đại diện cho hồ miền đồng
bằng); Biển Hồ, Hồ Ba Bể, Hồ Lắk (đại diện cho hồ miền núi). Các hồ đó có mực nước
quanh năm ổn định, chu trình vật chất khép kín tự có trong hồ là chính. Diện tích các hồ
tự nhiên ở Việt Nam là 20.000 ha. Việt Nam có rất nhiều hồ chứa cỡ trung bình và cỡ
nhỏ (hiện chưa kiểm kê hết), một số hồ chứa lớn là Thác Bà, Hoà Bình (ở miền Bắc),
Dầu Tiếng, Trị An, Thác Mơ, Sông Hinh (ở miền Nam). Diện tích hồ chứa trên 180
nghìn ha. Tuy nhiên, với vai trò quan trọng trong công tác thuỷ lợi, thuỷ điện và phân lũ,
hiện nay nhiều hồ chứa mới đang tiếp tục được xây dựng.
e) Đảo và quần đảo:
Việt Nam là một quốc gia có nhiều đảo và quần đảo. Hệ thống đảo ven bờ
gồm có 2.773 hòn đảo lớn nhỏ diện tích từ 0,001 km
2
đến 100 km
2
, diện tích tổng cộng
lên đến 1.720 km
2
. Về mặt phân bố, 83,7% số đảo ở ven biển tỉnh Quảng Ninh và Hải
Phòng, nơi tập trung thứ hai là các tỉnh Kiên Giang và Cà Mau trên vịnh Thái Lan. Có
tới gần 1.300 hòn đảo chưa có tên, vì chúng có kích thước quá nhỏ. Khoảng cách giữa
đất liền và đảo cũng rất khác nhau: đảo Cái Bàu chỉ cách đất liền một rạch triều; trong
khi đảo Bạch Long Vĩ cách Hải Phòng tới 135 km; đảo Hòn Hải cách Phan Thiết tới gần
155 km; đảo Thổ Chu cách cửa Ông Đốc (Kiên Giang) tới 146 km; quần đảo Hoàng Sa
nằm cách Đà Nẵng tới 350 km và quần đảo Trường Sa nằm cách vịnh Cam Ranh hơn
450 km. Các đảo và quần đảo của Việt Nam có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về
kinh tế và quân sự.
3.2. Lợi thế về lao động:
Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động trên 50%. Số
người biết chữ (10 tuổi trở lên) chiếm tỷ lệ rất cao - 91%. Nhận thức của người Việt
Nam tương đối nhanh nhạy và linh hoạt, vì vậy, với thời gian đào tạo ngắn nhưng người
Việt Nam có khả năng tiếp thu được kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến,
nhanh chóng đảm nhận nhiệm vụ mới.
Dân số Việt Nam năm 2003 là 80,9 triệu người, trong đó nữ 41,15 triệu người,
chiếm 50,86% tổng số, nam - 39,75 triệu người, chiếm 49,14% tổng số. Trong đó có
46,2 triệu người trong độ tuổi lao động (có 5,7 triệu người thất nghiệp). Và con số này
tăng lên đến năm 2006 là 48,3 triệu người (có 4,82 triệu người thất nghiệp). ( Nguồn từ
Niên giám thống kê 2006).
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
6
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần
nông, tăng tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể như sau:
Tổng số lao động xã hội 1990 1995 2000 2005
Trong ngành nông, lâm và ngư nghiệp 73,00% 71,10% 68,20% 56,80%
Trong ngành công nghiệp 11,24% 11,40% 12,10% 17,90%
Trong các ngành dịch vụ 15,56% 17,50% 19,70% 25,30%
Lao động trong khai thác hải sản:
Năm 2004, lực lượng lao động khai thác hải sản xấp xỉ 600.000 người. Phần lớn
đều có kinh nghiệm đi biển, thành thạo nghề, chịu được sóng gió. Tuy nhiên, thanh niên
vùng ven biển đang có xu hướng không muốn theo nghề khai thác, vì cường độ lao động
cao, năng suất đánh bắt thấp và thu nhập giảm. Việc đẩy mạnh khai thác xa bờ đang gặp
khó khăn về nguồn nhân lực. Đội ngũ thuyền trưởng, thuỷ thủ giỏi, có trình độ và kỹ
thuật khai thác xa bờ rất thiếu, nhất là các tỉnh Bắc Bộ và Nam Bộ, dẫn tới nhiều nơi tàu
đã đóng xong nhưng không tuyển được người có đủ trình độ ra khơi.
3.3. Vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân:
Ngành Thuỷ sản Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế đất nước. Quy mô của Ngành Thuỷ sản ngày càng mở rộng và vai trò của Ngành
Thuỷ sản cũng tăng lên không ngừng trong nền kinh tế quốc dân.
Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP của Ngành Thuỷ sản cao
hơn các ngành kinh tế khác cả về trị số tuyệt đối và tương đối, đặc biệt so với ngành có
quan hệ gần gũi nhất là nông nghiệp. Ngành Thuỷ sản là một ngành kinh tế kĩ thuật đặc
thù bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động mang những tính chất công nghiệp, nông nghiệp,
thương mại và dịch vụ, cơ cấu thành một hệ thống thống nhất có liên quan chặt chẽ và
hữu cơ với nhau. Trong khi các ngành khai thác, đóng sửa tàu thuyền cá, sản xuất ngư
lưới cụ, các thiết bị chế biến và bảo quản thuỷ sản trực thuộc công nghiệp nhóm A,
ngành chế biến thuỷ sản thuộc nhóm công nghiệp B, ngành thương mại và nhiều hoạt
động dịch vụ hậu cần như cung cấp vật tư và chuyên chở đặc dụng thuộc lĩnh vực dịch
vụ thì nuôi trồng thuỷ sản lại mang nhiều đặc tính của ngành nông nghiệp.
Vì vai trò ngày càng quan trọng của Ngành Thuỷ sản trong sản xuất hàng hoá
phục vụ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm trong nước và thu ngoại tệ, từ những năm cuối
của thập kỉ 90, Chính phủ đã có những chú ý trong qui hoạch hệ thống thuỷ lợi để
không những phục vụ tốt cho phát triển nông nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt đối với vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long.
Trên thế giới, ước tính có khoảng 150 triệu người sống phụ thuộc hoàn toàn hay
một phần vào Ngành Thuỷ sản. Ngành Thuỷ sản được coi là ngành có thể tạo ra nguồn
ngoại tệ lớn cho nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
7
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
đã trở thành hoạt động có vị trí quan trọng hàng nhất nhì trong nền kinh tế ngoại thương
Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu vẫn gia tăng hàng năm và năm 2004 đạt gần 2,4 tỷ
USD, vượt 20% so với kế hoạch, đưa chế biến thuỷ sản trở thành một ngành công
nghiệp hiện đại, đủ năng lực hội nhập, cạnh tranh quốc tế và dành vị trí thứ 10 trong số
nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu trên thế giới.
Vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân :
a) Cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng cho mọi người dân Việt Nam
50% sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ và 40% sản
lượng đánh bắt ở vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm cho
nhu cầu của người dân Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển rộng khắp, tới tận các
vùng sâu vùng xa, góp phần chuyển đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người dân
Việt Nam, cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi dào. Từ các vùng đồng bằng đến trung du
miền núi, tất cả các ao hồ nhỏ đều được sử dụng triệt để cho các hoạt động nuôi trồng
thuỷ sản. Trong thời gian tới, các mặt hàng thủy sản sẽ ngày càng có vị trí cao trong tiêu
thụ thực phẩm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
b) Đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm
Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung
cấp các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc
dân, Ngành Thuỷ sản đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứng
được yêu cầu cụ thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành Thuỷ
sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho người dân, không những
thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân
dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng ven biển. Những năm gần đây, đặc biệt
từ năm 2001 đến năm 2004, công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt động trình diễn
các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo làm ăn. Hiện tại,
mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản công ăn việc làm cho
ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã
góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất là lao động nông nhàn
ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề khai thác thuỷ sản ở sông Cửu Long được duy trì
đã tạo công ăn việc làm cho 48.000 lao động ở 249 xã ven sông.
c) Xoá đói giảm nghèo
Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát
triển các mô hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp
nguồn dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảm nghèo.
Tại các vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh từ
phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh,
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
8
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công
nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất hàng hoá lớn đã
hình thành, một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều
gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.
Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa cũng đã
phát triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các chương trình phát triển trung du
miền núi, các chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa.
d) Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh tế
biển. Nếu như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển để mở
rộng đất đai canh tác là định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện
nay việc tiến ra biển, kéo biển lại gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một nền kinh tế
công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trong những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây dựng, khiến
nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven biển. Đối với nền canh tác
nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm hoạ, nhưng với nuôi trồng thuỷ sản
nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng mới, vì hoạt động
nuôi trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng chục lần hoạt động canh tác
lúa nước.
Có thể nói nuôi trồng thủy sản đã phát triển với tốc độ nhanh, thu được hiệu quả
kinh tế - xã hội đáng kể, từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven
biển, nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nông dân.
Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển mạnh mẽ.
Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một trong
những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập cho
người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
e) Tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả sử dụng đất đai
Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nông thôn Việt
Nam. Người nông dân sử dụng ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động.
Hầu như họ không phải chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn là nuôi quảng canh. Tuy
nhiên, ngày càng có nhiều người nông dân tận dụng các mặt nước ao hồ nhỏ trong nuôi
trồng thuỷ sản nước ngọt với các hệ thống nuôi bán thâm canh và thâm canh có chọn lọc
đối tượng cho năng suất cao như mè, trắm, các loại cá chép, trôi Ấn Độ và các loài cá rô
phi đơn tính.
f) Nguồn xuất khẩu quan trọng
Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong
bảng danh sách các ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
9
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Thuỷ sản còn là một trong 10 ngành có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD. Năm
2005, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt gần 2,7 tỷ USD.
g) Đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa,
nhất là ở vùng biển và hải đảo
Ngành Thuỷ sản luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh, chủ quyền trên
biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng ven biển, hải đảo, góp phần thực hiện
chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Hệ thống cảng cá tuyến đảo này
sẽ được hoàn thiện đồng bộ để phục vụ sản xuất nghề cá và góp phần bảo vệ chủ quyền
an ninh vùng biển của tổ quốc.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT – CHẾ BIẾN – XUẤT KHẨU THỦY SẢN
VIỆT NAM
1. Thực trạng khai thác, sản xuất – chế biến – xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam:
1.1. Tình hình khai thác, sản xuất:
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
10
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Theo số liệu thống kê của FAO năm 2004, Việt Nam đứng thứ 11 trên thế giới về
sản lượng khai thác thuỷ sản.
1.1.1. Khai thác hải sản:
Khai thác hải sản luôn giữ vai trò quan trọng trong ngành thủy sản, góp
phần bảo vệ an ninh, chủ quyền vùng biển.
Năng lực khai thác hải sản:
Tàu thuyền đánh cá:
Tàu thuyền khai thác phần lớn là loại vỏ gỗ. Các loại tàu vỏ thép, xi măng
lưới thép, composite chiếm tỷ lệ không đáng kể. Những năm gần đây, số lượng tàu
thuyền máy tăng nhanh, trong khi đó, thuyền thủ công giảm dần. Năm 2001, tổng số
thuyền máy là 74.495 chiếc và thuyền thủ công là 13.267 chiếc, chiếm tỷ lệ tương ứng
là 85% và 15% tổng số tàu thuyền khai thác hải sản. Tổng công suất tàu thuyền máy đã
đạt tới 3.497.457 CV (năm 2001), lớn gấp 4,3 lần so với năm 1991, công suất bình quân
đạt gần 45CV/chiếc, tăng 2,5 lần so với 1991. Năm 2004, theo báo cáo từ các địa
phương, tổng số tàu thuyền máy đã tăng lên đến 85.430 chiếc với tổng công suất
4.721.700 CV, công suất bình quân đạt hơn 55 CV/tàu. Công suất trung bình các đội tàu
ở phía Nam đạt trên 90 CV/tàu và các vùng còn lại là 30 CV/tàu. Đáng chú ý là, số
lượng tàu quốc doanh đã giảm còn 44 tàu vào năm 2002.
Trong giai đoạn 1991 - 2004, số lượng tàu thuyền máy tăng bình quân
hằng năm 5,6%, nhưng mức tăng này có xu hướng chậm dần. Trong khi đó, mức tăng
tổng công suất trung bình hằng năm là 15,8 %, chiều hướng này cũng đang giảm dần.
Sự chênh lệch mức tăng giữa số lượng tàu và tổng công suất trong giai đoạn này cho
thấy, trong số tàu tăng hằng năm, số tàu công suất lớn chiếm một tỷ lệ đáng kể. Đây là
xu thế tích cực khi người dân chú trọng đóng tàu vươn khơi xa, giảm dần áp lực khai
thác vùng ven bờ. Chủ trương phát triển khai thác xa bờ, ổn định khai thác vùng gần bờ
của ngành thủy sản thực hiện trong nhiều năm qua cũng đã góp phần quan trọng trong
việc hỗ trợ ngư dân tham gia phát triển khai thác xa bờ. Trong những năm gần đây,
trước áp lực nguồn lợi ven bờ suy giảm, các cơ quan quản lý ngành thủy sản đã có chủ
trương hạn chế đóng mới các loại tàu thuyền dưới 20 CV. Do vậy, số lượng tàu nhỏ
khai thác gần bờ đã giảm nhiều. Chủ trương chuyển đổi cơ cấu nghề nghề cá, trong đó
có chuyển đổi từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động thủy sản gắn với bảo vệ nguồn lợi và môi trường đã được triển khai ở nhiều địa
phương và được người dân ủng hộ
Do đặc điểm tự nhiên và nguồn lợi hải sản ở các vùng biển khác nhau nên
cơ cấu nghề nghiệp ở từng địa phương cũng khác nhau :
+ Nghề lưới kéo chiếm tỷ lệ cao nhất ở các tỉnh Nam Bộ (37,5%), trong
đó tỷ lệ này ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng là 47%, Kiên Giang chiếm
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
11
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
41,5%, Bà Rịa-Vũng Tàu chiếm 38,5%. Đây là do đặc điểm nguồn lợi ở vùng
biển Đông Nam Bộ (cá đáy chiếm 60% khả năng khai thác).
+ Nghề lưới rê ở các tỉnh Bắc Bộ chiếm 26% tổng số đơn vị nghề và ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ chiếm 29,3% là phù hợp với nguồn lợi ở vịnh Bắc Bộ (cá nổi
chiếm 57% khả năng khai thác).
+ Nghề ngư cụ cố định trong đó chủ yếu là nghề đáy, tập trung ở các tỉnh
có nhiều cửa sông. Ví dụ : Trà Vinh 55%, Huế 31%, Tiền Giang 16%, thành phố
Hồ Chí Minh 13%, Cà Mau 10%.
+ Nghề đáy cao tại một số tỉnh đã có tác động xấu đến bảo vệ nguồn
lợi, vì đối tượng đánh bắt chủ yếu là các đàn cá chưa trưởng thành thường vào
vùng cửa sông kiếm ăn.
1.1.2. Khai thác thủy sản nội địa
Khai thác ở hồ
Việt Nam có trên 200.000 ha mặt nước hồ, trong đó diện tích hồ tự nhiên trên
20.000 ha, còn lại là hồ chứa. Tổng sản lượng thủy sản khai thác ở hồ hằng năm khoảng
9.000 tấn, trong đó 4.000 tấn khai thác ở hồ tự nhiên và 5.000 tấn khai thác ở các hồ
chứa.
Khai thác ở vùng trũng ngập nước
Các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ không có vùng trũng ngập nước lớn. Vùng đồng
bằng sông Cửu Long có nhiều vùng ngập nước theo mùa rất lớn. Ví dụ, vùng đồng Tháp
Mười là 140.000 ha và vùng tứ giác Long Xuyên là 218.000 ha. Cá ở hệ thống sông
Cửu Long di cư vào vùng trũng ngập nước trong mùa mưa để kiếm ăn. Đến mùa khô lại
di chuyển ra sông. Nông dân ở hai vùng trũng ngập nước này hằng năm khai thác được
khoảng trên 20.000 tấn.
Khai thác trên sông
Nước ta có hàng ngàn sông, rạch. Trước đây, nguồn lợi cá sông rất phong phú.
Vào thập kỷ 70, trên sông Hồng có trên 70 hợp tác xã đánh cá. Sản lượng khai thác hằng
năm khoảng hàng ngàn tấn cá. Do khai thác quá mức, nên nguồn cá sông đã cạn kiệt.
Ngư dân phải chuyển sang kiếm sống bằng nghề khác. Các sông ngòi ở miền Trung
cũng có tình trạng tương tự.
Hiện nay, chỉ còn sông Cửu Long duy trì được nghề khai thác với sản lượng xấp
xỉ 30.000 tấn/năm, tạo công ăn việc làm cho 48.000 lao động ở 249 xã ven sông. Hệ
thống kênh, rạch chằng chịt ở Nam Bộ cung cấp một lượng cá nước ngọt đáng kể. Sản
lượng khai thác thủy sản nội địa năm 2003 và năm 2004 đã đạt khoảng 200.000 tấn, thu
hút khoảng 100.000 lao động.
1.2. Tình hình chế biến và bảo quản:
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
12
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
Chế biến thuỷ sản được hiểu là chế biến tất cả các loài thuỷ sản nước ngọt,
nước lợ và nước mặn thu hoạch từ hoạt động khai thác thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ sản.
Chế biến thuỷ sản được phân thành hai nhóm sau:
• Chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước. Những
năm trước đây, do phải nhập dây chuyền đồng bộ từ nước ngoài nên chi phí cho hoạt
động chế biến nội địa tương đối cao, giá thành sản phẩm không phù hợp với sức mua
của người dân trong nước. Gần đây, ngành thuỷ sản đã chủ động phát triển công nghiệp
cơ điện lạnh phục vụ thiết bị cho chế biến thuỷ sản nội địa nên tình trạng này đã được
khắc phục. Mặt khác, do mức thu nhập tăng nên nhu cầu tiêu thụ cũng tăng theo, nhiều
sản phẩm thuỷ sản chế biến đã không còn phân biệt ranh giới giữa tiêu dùng nội địa và
xuất khẩu.
• Chế biến sản phẩm xuất khẩu
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm mục tiêu xuất khẩu thu ngoại tệ.
Trước những nguy cơ và thách thức mới, các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất
khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long đã không ngừng đổi mới phương thức quản lý và tác
phong làm việc; tích cực đầu tư máy móc và trang thiết bị hiện đại để tiến hành qui trình
tự động hoá sản xuất.
Áp dụng các công nghệ tiên tiến trên thế giới như công nghệ bảo quản sau thu
hoạch, công nghệ surimi, công nghệ ngủ đông trong vận chuyển thuỷ sản tươi sống,
công nghệ đông rời IQF… Tập trung chế biến các mặt hàng giá trị gia tăng như mặt
hàng phi lê đông lạnh, mặt hàng surimi, sản phẩm sẵn sàng để nấu hoặc sản phẩm ăn
liền, nhờ đó tỷ trọng các mặt hàng này trong tổng sản phẩm chế biến xuất khẩu đã tăng
lên.
Đoàn thanh tra Liên minh châu Âu (EU) đã có những nhận xét tốt về việc kiểm soát
an toàn vệ sinh tại các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu vào EU của Việt Nam, cũng
như việc sửa chữa, khắc phục lỗi của cơ sở chế biến đối với các khuyến cáo mà EU đưa
ra.
Chế biến thủy sản là khâu rất quan trọng của chu trình sản xuất, kinh doanh thủy.
Những hoạt động trong lĩnh vực chế biến trong 10 năm qua được đánh giá là có hiệu
quả, đã góp phần tạo nên sự khởi sắc của ngành thủy sản. Các khía cạnh được đánh giá
cụ thể như sau:
Nguồn nguyên liệu và cơ cấu sử dụng nguyên liệu cho chế biến thủy sản
Do tổng sản lượng thuỷ sản tăng mạnh và công nghệ chế biến, thói quen tiêu
dùng cũng có nhiều thay đổi nên lượng nguyên liệu được đưa vào chế biến ngày càng
nhiều. Năm 2000 lượng nguyên liệu đưa vào chế biến đã chiếm tới 66% tổng sản lượng
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
13
GVHD: Cô Trương Khánh Vĩnh Xuyên Chuyên đề Kinh Tế
thuỷ sản của Việt Nam. Đến năm 2004, ước tính lượng nguyên liệu đưa vào chế biến
chiếm xấp xỉ 70%.
Chất lượng nguyên liệu
Nguyên liệu hải sản được đánh bắt từ nhiều loại tàu và ngư cụ khác nhau do đó
sản phẩm đánh bắt được cũng có những đặc tính khác nhau. Đối với các tàu đi dài ngày,
sản phẩm đánh bắt thường được bảo quản bằng đá, cá tạp thì ướp muối, rất ít phương
tiện có hầm bảo quản lạnh. Các loại tàu nhỏ thường đi về trong ngày nên nguyên liệu
hầu như không qua xử lý bảo quản. Nguyên liệu hải sản thường bị xuống cấp chất lượng
do phương tiện và đầu tư cho khâu bảo quản còn quá ít, quá thô sơ. Sau khi hải sản
được đánh bắt, thông qua các cảng, bến cá phần lớn chưa được xây dựng hoàn chỉnh do
đó về mùa nóng các loại hải sản thường bị xuống cấp nhanh chóng, giá trị thất thoát sau
thu hoạch lớn (khoảng 30%).
Nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch đã được tiến hành, song tác động của nó
vào thực tiễn sản xuất còn ít, một phần do chất lượng thuỷ sản hiện thị trường còn chấp
nhận một phần do những lý do kinh tế, tài chính, kỹ thuật mà bản thân ngư dân chưa thể
áp dụng những công nghệ bảo quản mới này cho sản phẩm khai thác của mình.
Các loại nguyên liệu từ nuôi trồng nước ngọt, lợ do gần nơi tiêu thụ hoặc là chủ
động khai thác nên được đưa trực tiếp ra thị trường hoặc vào thẳng các nhà máy chế
biến, hầu như không qua xử lý bảo quản, chúng thường đảm bảo độ tươi, chất lượng tốt.
Các mặt hàng chế biến thủy sản chính
a. Mặt hàng đông lạnh
Đến năm 2000, lượng hàng thuỷ sản đông lạnh vẫn tiếp tục tăng mạnh (chiếm
86% về giá trị các mặt hàng thuỷ sản chế biến của Việt Nam). Trong các sản phẩm thuỷ
sản đông lạnh thì tôm đông lạnh chiếm khoảng 23% về khối lượng chế biến. Mực và
bạch tuộc đông lạnh có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, trung bình là 38,57%/năm. Năm
2000, lượng mực chế biến đông lạnh xuất khẩu lên tới 38.104 tấn, chiếm 18% khối
lượng hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Mực thường được sản xuất dưới dạng
đông lạnh nguyên con, đông rời hoặc gần đây là Sashimi, Seafood mix, mực trái thông
v.v
Mặt hàng cá đông lạnh những năm gần đây cũng có tốc độ tăng rất mạnh. Năm
2000 đã đạt 56.052 tấn, chiếm 19% tổng sản lượng thuỷ sản xuất khẩu. Mặt hàng filet
đông lạnh phần lớn được chế biến cho xuất khẩu. Đông lạnh nguyên con tăng nhanh do
được tiêu thụ cho cả thị trường nội địa, thị trường Trung quốc và một phần xuất khẩu
cãc thị trường khác.
Các loại đông lạnh khác: chủ yếu là các loại ghẹ, ốc, cua, sò, điệp, các mặt hàng
phối chế (như ghẹ nhồi Kany boy, Kany girl, gạch ghẹ đóng bánh đông lạnh). Các sản
phẩm này có tốc độ tăng trưởng rất nhanh cùng với sự tăng trưởng của các mặt hàng có
Sinh viên thực hiện: Phạm Lê Đông Hậu - 4054388
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét