Đề án kinh tế chính trị
hàng. Bởi vậy để có đợc lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp bắt buộc phải quan
tâm đến nhu cầu của khách hàng, cụ thể là nhu cầu về chất lợng và giá cả.
Khách hàng luôn đòi hỏi chất lợng hàng hoá phải đợc nâng cao trong khi giá
bán hạ xuống. Để đáp ứng đòi hỏi của ông vua này doanh nghiệp phải lựa
chọn phơng thức sản xuất sao cho chi ohí sản cuất giảm xuống đến mức có thể
trong khi vẫn đảm bảo chất lợng. Nh vậy cơ chế thị trờng đã giải quyết ba vấn
đề cơ bản của nền kinh tế trong khi với cơ chế kế hoach hoá việc Nhà nớc tự
ra quyết định sản xuất thờng gây ra sự khác biệt giữa cầu và cung dẫn đến sự
rối loạn của thị trờng hàng hoá.
Tuy nhiên lịch sử loài ngời cũng ghi nhận những khuyết điểm của cơ
chế thị trờng đặc biệt là trong các vấn đề xã hội. Trớc hết do áp lực cạnh tranh
mà trong quá trình sản xuất đã phát sinh vấn đề phân hoá giàu nghèo. Những
ngời tồn tại và phát triển đợc cùng với cơ chế thị trờng sẽ có đợc những nguồn
thu nhập lớn trở nên giàu có trong khi một bộ phận không nhỏ khác phải chấp
nhận phá sản, trở nên nghèo khó. Khi xã hội càng phát triển thì sự phân hoá
giàu nghèo càng diễn ra mạnh mẽ giữa những c dân cùng quốc gia, giữa mức
sống dân chúng của các nớc. Ngày nay, sự khác biệt đó đã lên đến hàng trăm
lần. Tại những quốc gia có mức sống cao, GDP đầu ngời hàng năm vào
khoảng trên 30000 USD trong khi quốc gia nghèo khó nhất nh Mozambic thu
nhập đầu ngời tính theo GDP chỉ đạt 80USD. Sự chênh lệch này sẽ càng thể
hiện rõ hơn khi so sánh với tỷ lệ hồi đầu thế kỷ trớc chỉ khoảng vài chục lần.
Ngoài ra do mục tiêu lợi nhuận trong nền kinh tế thị trờng, ngời ta sẵn
sàng lạm dụng tài nguyên xã hội, làm ô nhiễm môi trờng nhằm mục tiêu giảm
chi phí sản xuất qua đó nâng cao lợi nhuận. Hậu quả là môi trờng bị ô nhiễm
nghiêm trọng, tài nguyên cạn kiệt, hệ sinh thái mất cân bằng. Chỉ đến gần đây
ngời ta mới nhận thức đợc vấn đề này. Nhng khi mà các nớc nỗ lực giảm lợng
khí thải xuống thì việc Mỹ rút khỏi công ớc Kyoto thì ngời ta sẽ còn vô số việc
phải làm để đảm bảo sự phát triển bền vững cho các thế hệ sau. Cũng do mục
đích lợi nhuận mà các nhà kinh doanh sẽ không tham gia vào một số lĩnh vực
kinh tế có tỷ suất lợi nhuận thấp hoặc các ngành kinh tế công cộng. Do đó nền
kinh tế có thế phát triển mất cân đối và cần có sự tham gia vào của Nhà nớc
để khắc phục nhợc điểm này.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ đỉnh cao của các công ty độc
quyền với làn sóng sát nhập và thôn tính. Phải mất hàng chục năm sau ngời ta
mới nhận ra tác hại của các công ty độc quyền này đối với nền kinh tế. Tại
Mỹ Luật chống độc quyền chỉ ra đời vào năm 1960, các nớc khác còn muộn
hơn. Bởi vì cơ chế thị trờng chỉ hoạt động có hiệu quả trong môi trờng cạnh
tranh hoàn hảo để có thể thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản xuất nhờ đó
mà sử dụng hiệu quả đến tối đa các nguồn lực của nền kinh tế. Khi có sự tồn
tại của các công ty độc quyền cơ chế này không còn hiệu quả nữa. Nhng sự
5
Đề án kinh tế chính trị
xuất hiện của các công ty độc quyền gần nh là hệ quả tất yếu của quá trình
cạnh tranh. Bởi vậy sự can thiệp của Nhà nớc là cần thiết để duy trì tính lành
mạnh của thị trờng.
1.3. Nền kinh tế thị tr ờng định h ớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.3.1. Định nghĩa nền kinh tế thị trờng.
Theo quan điểm của Samuelson trích trong Kinh tế học thì Một nền
kinh tế thị trờng là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác
nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thông giá cả và thị trờng. Nó là một
phơng tiện giao thông để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân
khác nhau, không có bộ não trung tâm nó vẫn giải đợc bài toán mà máy tính
lớn nhất ngày nay cũng không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra nó. Nó tự xuất
hiện và nó đang thay đổi cũng nh xã hội loài ngời.
Theo quan điểm của Đảng ta, một nền kinh tế mà trong đó những vấn
đề cơ bản của nó do thị trờng quyết định đợc xem là nền kinh tế thị trờng. Nói
cách khác nền kinh tế thị trờng chính là nền kinh tế hàng hoá chịu sự điều
khiển của cơ chế thị trờng. Nền kinh tế này khác với nền kinh tế tập trung ở
chủ thể xác định các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. ậ nền kinh tế tập trung chủ
thể này là Nhà nớc thông qua các mệnh lệnh hành chính. Chính sự khác biệt
này tạo ra sức mạnh và động lực cho nền kinh tế phát triển.
Tại Việt Nam kể từ Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ VI, chúng ta đã xác
định xây dựng nền kinh tế thành nền kinh tế thị trờng nhng theo định hớng xã
hội chủ nghĩa. Tức là có sự can thiệp của Nhà nớc vào nền kinh tế nhng không
phải can thiệp vào nền kinh tế theo kiểu mệnh lệnh hành chính mà can thiệp
thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định nền kinh tế và tạo điều
kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất và kinh doanh. Sự can
thiệp này đợc xem là cần thiết nhằm thiết lập khuôn khổ pháp luật phù hợp,
sửa chữa những khuyết tật của thị trờng, đảm bảo sự công bằng xã hội và ổn
định kinh tế vĩ mô (Kinh tế học- Samuelson). Đây là lý thuyết nền kinh tế hỗn
hợp đã đợc Samuelson đa ra. Theo ông phát triển kinh tế phải dựa trên hai bàn
tay là cơ chế thị trờng và Nhà nớc: điều hành một nền kinh tế không có cả
chính phủ lẫn thị trờng thì cũng nh định vỗ tay bằng một bàn tay. Tuy nhiên
trong hoàn cảnh nớc ta thì sự can thiệp của Nhà nớc còn đóng vai trò giữ cho
nền kinh tế đi theo đúng định hớng xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Sự tồn tại nền kinh tế thị trờng tại Việt Nam là một thực tế
khách quan.
Việt Nam đang tồn tại đủ các điều kiện cần thiết là cơ sở tồn tại của nền
kinh tế hàng hoá. Phân công lao động đang phát triển cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Nhiều ngành nghề mới đã ra đời, đặc biệt là những ngành công
6
Đề án kinh tế chính trị
nghiệp có hàm lợng kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm cao nh điện tử, tin học
Bên cạnh đó các ngành nghề cổ truyền cũng đang phát triển mạnh mẽ. Các sản
phẩm của ngành đang từng bớc khẳng định thơng hiệu trên thị trờng trong nớc
và quốc tế. Đây chính là những thế mạnh của Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế thế giới. Sự phát triển này đã kéo theo sự phát triển nhanh chóng
của lực lợng sản xuất. Lao động Việt Nam đã đợc cải thiện đáng kể về chất
cũng nh về lợng. Đồng thời tình trạng lao động cũng đợc phân bố lại cho phù
hợp hơn giữa các ngành, các vùng. Lao động Việt Nam cũng đã vơn ra thị tr-
ờng thế giới và thực tế đã chứng minh đợc những u thế của mình. Thực sự
phân công lao động Việt Nam đã trở thành một bộ phận của phân công lao
động thế giới.
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, Việt Nam đã chính thức thừa
nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Nhờ đó các
thành phần kinh tế này đã có những điều kiện cần thiết để phát triển. Từ đó
xuất hiện sự khác biệt giữa các hình thức sở hữu về t liệu sản xuất và sản phẩm
lao động. Đây chính là điều kiện đủ để nền kinh tế hàng hoá có cơ sở ra đời.
Khác biệt về sở hữu t liệu sản xuất và sản phẩm lao động đã tạo ra động lực to
lớn để thúc đẩy kinh tế phát triển mặc dù mặt trái của nó chính là vấn đề phân
hoá giàu nghèo.
Sau một thời gian dài duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã
đến lúc chúng ta cần một sự chuyển đổi để phát triển kinh tế. Cơ chế thị trờng
với những u thế không thể chối cãi là một sự lựa chọn hợp lý và tất yếu. Cơ
chế quản lý cũ cồng kềnh, kém năng lực đã không còn phù hợp với tình hình
trong nớc và quốc tế. Những căn bệnh đặc trng của cơ chế cũ nh bảo thủ, trì
trệ, kém năng lực, hình thành nên một bộ máy quản lý thiếu chuyên môn
nghiệp vụ nhng lại có thái độ quan liêu cửa quyền cần phải đợc thay đổi. Thực
tế cho thấy trải qua gần hai mơi năm đổi mới vậy nhng chúng ta vẫn phải thực
hiện các cuộc chỉnh đốn Đảng, cải cách bộ máy hành chính chứng tỏ những
quan niệm cũ sai lầm đã ăn sâu bám rễ nh thế nào. Việc xoá bỏ hoàn toàn
không hề dễ ràng, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều nhng đó là
việc cần thiết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Cùng với cơ chế cũ là sự bất cập
khi Nhà nớc can thiệp quá sâu vào sản xuất kinh doanh, điều hành không tuân
theo các quy luật kinh tế mà theo cảm tính dẫn đến sự thất bại trong thực hiện
các mục tiêu kinh tế xã hội đã đặt ra. Chuyển sang cơ chế mới sẽ tạo điều kiện
cho sự các thành phần kinh tế xã hội phát triển theo đúng những quy luật kinh
tế khác quan.
1.3.3. Nhân tố bảo đảm sự phát triển kinh tế xã hội theo hớng kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu phát triển đề ra không chỉ cải thiện nền kinh tế nớc ta mà còn
đặt ra yêu cầu đảm bảo định hớng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo định hớng
7
Đề án kinh tế chính trị
kinh tế nớc ta thì kinh tế Nhà nớc là một trong những nhân tố bảo đảm tính h-
ớng kinh tế thị trờng. Thành phần kinh tế Nhà nớc hoạt động sản xuất kinh
doanh theo nguyên tắc tự hạch toán, phân phối theo lao động và hợp tác kinh
doanh. Chủ trơng của Nhà nớc ta là kinh tế Nhà nớc tập trung vào những lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế nh ngân hàng, tài chính, điện lực, an ninh quốc
phòng và khu vực kinh tế công cộng và nắm giữ vai trò chủ đạo, định hớng
cho nền kinh tế. Kinh tế Nhà nớc cần đủ sức mạnh để có thể ổn định nền kinh
tế nhất là trong những cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế. Ngoài ra còn một
nhân tố đóng vai trò quan trọng khác là sự tham gia của Nhà nớc vào nền kinh
tế thị trờng. Tuy nhiên Nhà nớc chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô, đảm bảo tính ổn
định và trong sạch của thị trờng. Đồng thời sự can thiệp của Nhà nớc thông
qua các chính sách kinh tế sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các thành phần kinh tế
hoạt động. Nhà nớc cũng đóng vai trò xác định hớng sản xuất trọng điểm, khu
vực cần tập trung vào phát triển kinh tế giúp nền kinh tế phát triển đồng đều
cân đối.
II. Thực trạng nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Đánh giá chung.
Mời lăm năm đổi mới cha phải là dài nhng chúng ta có thế thấy đợc sự
thành công bớc đầu của công cuộc đổi mới kinh tế theo hớng xã hội chủ nghĩa.
8
Đề án kinh tế chính trị
Nếu so sánh với thời điểm năm 1986 khi chúng ta bắt đầu công cuộc đổi mới
thì có thể thấy sự khác biệt to lớn trong đời sống kinh tế xã hội nớc ta. Cụ thể
là tình hình kinh tế xã hội ổn định đời sống nhân dân đợc cải thiện rõ rệt, cơ
cấu kinh tế có sự thay đổi to lớn với sự xuất hiện của các thành phần kinh tế
mới, các khu vực kinh tế mới kỹ thuật cao cũng xuất hiện và đóng góp đáng kể
vào tổng sản phẩm quốc gia. Nông nghiệp không còn có tỷ trọng cao trong
tổng sản phẩm nữa. Tỷ lệ tăng trởng kinh tế ở nớc ta là khá cao, trong những
năm qua là khoảng 7%/năm, đó là một thành công to lớn trong khi tình hình
kinh tế thế giới hiện nay không mấy sáng sủa. Khu vực kinh tế công cộng có
sự cải thiện và hoàn chỉnh đặc biệt ở các thành phố lớn. Hệ thống pháp luật đ-
ợc chỉnh sửa và từng bớc hoàn thiện. Thủ tục hành chính đang đợc đơn giản
hoá. Cơ cấu lao động có sự thay đổi, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm đi, trong
khi ở các ngành khác có xu hớng tăng lên. Tỷ lệ lao động thất nghiệp giảm.
Vấn đề phát triển con ngời đang đợc đặt ra và cải thiện, tính dân chủ đợc đặt ra
nhất là trong các vấn đề xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế trong nớc, vị thế
nớc ta trên trờng quốc tế cũng đợc nâng cao. Việt Nam đã tham gia vào các tổ
chức kinh tế lớn trên thế giới, ký kết các hiệp định thơng mại với các quốc gia
khác, tham gia tích cực vào các vấn đề thế giới, các diễn đàn, hội nghị từng b-
ớc quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế. Đay chính là những thành
công cơ bản của nớc ta sau 15 năm đổi mới.
Mặc dù vậy không phải chúng ta không còn những hạn chế. Cơ cấu
kinh tế nói chung vẫn cha phù hợp, cơ sở hạ tầng không theo kịp với sự phát
triển của kinh tế đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần tiếp tục thay
đổi cho phù hợp với yêu cầu của quá trình đổi mới. Vấn đề phát triển thị trờng
nớc ngoài còn nhiều hạn chế cha phát huy hết năng lực sản xuất trong nớc.
Việc đầu t vốn còn cha đợc nghiên cứu kỹ và cha phát huy hết hiệu quả sử
dụng vốn. Nhiều ngành kinh tế còn phải nhờ vào sự bảo hộ của Nhà nớc để có
thể tồn tại. Một số cơ sỏ kinh tế quốc doanh hoạt động không hiệu quả cha đợc
xử lý vẫn đang là gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc. Hệ thống luật cha ổn
định và đặc biệt là vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, cha phù hợp với yêu cầu
phát triển kinh tế, thủ tục hành chính còn chồng chéo
9
Đề án kinh tế chính trị
2.2. Những thành công trong cải cách xây dựng cơ chế kinh tế mới.
Để đánh giá những thành công của công cuộc đổi mới kinh tế ở nớc ta
chúng ta hãy xem xét một số những kết quả phát triển kinh tế trong những
năm qua, đặc biệt trong năm 2001.
Bảng 1:
Tổng sản phẩm trong nớc theo giá thực tế phân theo
khu vực kinh tế
Tổng số
Nông, lâm
nghiệp Công nghiệp
Dịch
vụ
Năm và thuỷ sản và xây dựng
Tỷ đồng
Cơ
cấu Tỷ đồng Cơ cấu Tỷ đồng Cơ cấu Tỷ đồng Cơ cấu
1990 41955 100 16252 38.74 9513 22.67 16190 38.59
1991 76707 100 31058 40.49 18252 23.79 27397 35.72
1992 110532 100 37513 33.94 30135 27.26 42884 38.8
1993 140258 100 41895 29.87 40535 28.9 57828 41.23
1994 178550 100 48968 27.43 51540 28.87 78026 43.7
1995 228892 100 62219 27.18 65820 28.76 100853 44.06
1996 272036 100 75514 27.76 80876 29.73 115646 42.51
1997 313623 100 80826 25.77 100595 32.08 132202 42.15
1998 361017 100 93073 25.78 117299 32.49 150645 41.73
1999 399942 100 101723 25.43 137959 34.49 160260 40.08
2000 441646 100 108356 24.53 162220 36.73 171070 38.74
2001 484493 100 114412 23.62 183291 37.83 186790 38.55
Qua kết quả trên, chúng ta có thể phần nào đánh giá đợc tốc độ phát
triển kinh tế của Việt Nam trong các khu vực kinh tế cơ bản. Từ năm 1990 đến
nay, tổng sản phẩm trong nớc GDP liên tục tăng với tốc độ khá cao, trung bình
khoảng 7%/năm (chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nớc đợc trình bày ở
phần sau).Trong đó, khu vực kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản mặc
dù có kết quả tăng tốt nhng tỷ trọng lại liên tục giảm. Điều này phản ánh bớc
chuyển biến đáng mừng trong cơ cấu GDP. Đến năm 2001 tỷ trọng của ngành
chỉ còn khoảng 23,62%, thấp nhất trong cả ba khu vực kinh tế. Trong khi đó tỷ
trọng của công nghiệp và xây dựng lại liên tục tăng lên và tăng khá nhanh
trong những năm gần đây. Thực tế theo báo cáo đầu năm của chính phủ, trong
6 tháng đầu năm 2003 ngành công nghiệp cũng là ngành có tốc độ tăng trởng
cao nhất, khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2002. Trong khoảng 3 năm trở lại
10
Đề án kinh tế chính trị
đây, khu vực kinh tế này đang có những dấu hiệu cho thấy sự phát triển mạnh
mẽ đặc biệt trong khối công nghiệp nặng vốn khá nặng nề và chậm chạp. Có
thể coi đó là những kết quả đáng mừng thu đợc từ hàng loạt chính sách u đãi
mà Nhà nớc dành cho khu vực này. Cũng theo báo cáo trên thì vài năm trở lại
đây đã xuất hiện khá nhiều nhà đầu t quan tâm đầu t và ngành kinh tế quan
trọng này.
Trong những năm qua ngành du lịch Việt Nam đã có bớc phát triển
đáng kể. Đặc biệt trong năm 2002 du lịch đã có sự tăng trởng đột biến. Năm
2003 mặc dù bị ảnh hởng bởi chiến tranh Irắc và nhất là dịch SARS nhng
ngành du lịch Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi thông qua các hoạt động
tuyên truyền quảng bá hình ảnh đất nớc và con ngời Việt Nam. Kết qảu phân
tích cho thấy trong 6 tháng đầu năm ngành du lịch vẫn đạt đợc những thành
công đáng kể đặc biệt là lợng khách quốc tế không hề giảm, trong khi lợng
khách du lịch trong nớc lại tăng lên. Đó là kết quả của chính sách chuyển h-
ớng từ thị trờng nớc ngoài vào thị trờng trong nớc đợc đa ra khi dịch SARS
bùng nổ. Trong 6 tháng cuối năm, ViệtNam đang có chủ trơng đẩy mạnh phát
triển du lịch đặc biệt là thị trờng quốc tế do dịch SARS đã đợc khống chế hoàn
toàn.
Bảng 2:
Tổng sản phẩm một số ngành kinh tế quan trọng
Năm 1995 1998 1999 2000 2001
Tống sản phẩm quốc nội 228892 361017 399942 441646 484493
Nông nghiệp 52713 76170 83335 87537 91687
Lâm nghiệp 2842 5304 5737 5913 6080
Thuỷ sản 6664 11598 12651 14906 16645
Công nghiệp khai thác mỏ 11009 24196 33703 42606 44544
Công nghiệp chế biến 34318 61906 70158 81979 95129
Sản xuất và phân phối điện,
khí đốt và nớc
4701 10339 11725 13993 16197
Xây dựng 15792 20858 21764 23642 27421
Khách sạn nhà hàng 8625 12404 13412 14343 15808
11
Đề án kinh tế chính trị
Vận tải kho bãi và thông tin
liên lạc
9117 14076 15546 17341 19431
Tài chính tín dụng 4604 6274 7488 8148 8847
Khoa học công nghệ 1405 2026 1902 2345 2656
Giáo dục đào tạo 8293 13202 14004 14841 16489
Y tế và hoạt động cứu trợ xã
hội
3642 4979 5401 5999 6367
Hoạt động phục vụ cá nhân
và cộng đồng
4979 8874 9323 9853 10672
Các ngành khác 60188 88808 93184 98200 106520
Quan sát bảng trên chúng ta có thể thấy các ngành kinh tế quan trọng
nhất đều có sự tăng trởng liên tục trong những năm qua với tốc độ tơng đối cao
và ổn định. Quan trong nhất ở đây là yếu tố ổn định vì chính sự ổn định mới có
tác dụng hạn chế khủng hoảng cũng nh các yếu tố bất thờng khác có thể ảnh
hởng đến nền kinh tế. Trong các ngành trên đáng chú ý có ngành giáo dục và
các hoạt động khoa học công nghệ có mức độ tăng trởng khá nhanh. Đến năm
2001 hoạt động giáo dục đào tạo đã đạt 3.4% tổng sản phẩm GDP. Mặc dù tỷ
trọng trong GDP của ngành thực tế không tăng mà còn có xu hớng giảm so với
những năm trớc nhng số tuyệt đối lại liên tục tăng chứng tỏ sự phát trên của
ngành. Tuy nhiên qua đó cũng có thể thấy thực trạng là ngành giáo dục đào
tạo cũng nh các hoạt động khoa học công nghệ vẫn cha đợc chú ý đầu t đầu t
đúng mức nên mặc dù số tuyệt đối tăng nhng tỷ trọng vẫn giảm tức là mức
phát triển cha tơng xứng với mức tăng trởng chung của toàn xã hội. Cũng từ
bảng 2 ngời ta dễ dàng nhận thấy mặc dù không còn giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế nhng ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ khá cao và nhất là sự phát
triển không đồng đều của các ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Ngành lâm
nghiệp vẫn hầu nh không phát triển. Thuỷ sản phát triển chậm và chỉ thực sự
phát triển trong khoảng 2-3 năm trở lại đây. Các ngành thuộc lĩnh vực công
nghiệp nói chung đều tăng trởng khá trừ khai thác mỏ mặc dù vẫn tăng trởng
nhng dờng nh đang có dấu hiệu chững lại. Đây là vấn để các nhà quản lý cần
quan tâm. Công nghiệp chế biến tăng trởng nhanh cả về số tuyệt đối lẫn tỷ
trọng đóng góp vào nền kinh tế. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy chúng ta
đã đi dần đến sản xuất hàng hoá thay vì chỉ sản xuất và cung cấp những sản
phẩm thô hoặc mới qua sơ chế , bán sơ chế. Đến năm 2001 tỷ trong của ngành
12
Đề án kinh tế chính trị
đạt 19,63% tức là cao nhất nền kinh tế. Chỉ số phát triển của ngành trong năm
qua là 111.3% tức là chỉ sau tốc độ phát triển của công nghiệp nặng 114%.
Xem xét nền kinh tế ngoài chỉ số GDP còn có chỉ số GNP (Gross
National Product- tổng sản phẩm quốc gia). Cùng với sự tăng trởng của GDP
thì chỉ số GNP cũng tăng lên tơng ứng. Hơn thế nữa tỷ lệ GNP so với GDP
tăng lên liên tục trong những năm qua cho thấy xu hớng mới xuất khẩu t bản
ra nớc ngoài đã bắt đầu xuất hiện trong nền kinh tế Việt Nam nhằm tận dụng
các điều kiện thuận lợi cũng nh các u đãi khi đầu t ở nớc ngoài để từng bớc đa
hàng hoá mang thơng hiệu Việt Nam tiến ra thị trờng thế giới.
Bảng 3:
Tổng sản phẩm quốc gia
Năm Tổng sản phẩm quốc
gia GNP (tỷ đồng)
Tổng sản phẩm quốc
nội GDP (tỷ đồng)
Tỷ lệ GNP so với
GDP (%)
1990 39284 41955 93.6
1997 307875 313623 98.2
1998 354368 361016 98.2
1999 394614 399942 98.7
2000 436922 441646 98.9
Tiếp theo chúng ta sẽ xem xét cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội GDP theo
thành phần kinh tế. Chúng ta cũng xem xét và phân tích cơ cấu vốn sản xuất
theo thành phần kinh tế trong quan hệ với tổng giá trị sản phẩm của ngành
công nghiệp để qua đó đánh giá toàn bộ nền kinh tế nớc ta. Theo nghị quyết
Đại hội Đảng IX nền kinh tế nớc ta bao gồm 6 thành phần kinh tế:
1. Thành phần kinh tế Nhà nớc.
2. Thành phần kinh tế tập thể
3. Thành phần kinh tế t nhân
4. Thành phần kinh tế cá thể
5. Thành phần kinh tế hỗn hợp
6. Thành phần kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài
Trong 6 thành phần kinh tế trên thì kinh tế Nhà nớc đợc xem là thành
phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nắm giữ các
13
Đề án kinh tế chính trị
ngành sản xuất quan trọng nhất, đảm bảo cung cấp các sản phẩm công cộng và
những sản phẩm thuộc các lĩnh vực quốc kế dân sinh. Nó tạo cơ sở hạ tầng cho
nền kinh tế hàng hoá hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác phát triển theo đúng định hớng xã hội chủ nghĩa. Thành phần kinh tế
có vốn đầu t nớc ngoài đợc đặc biệt coi trọng, khuyến khích, thành phần kinh
tế cá thể cần đợc đẩy mạnh và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển đồng
thời cần tăng cờng công tác quản lý để xây dựng nền nếp. Thành phần kinh tế
t nhân cũng cần đợc đẩy mạnh và coi trọng để phát huy hết những tiềm lực đa
vào phát triển kinh tế. Cả 6 thành phần kinh tế này cùng thống nhất và phát
triển trong nền kinh tế mặc dù giữa chúng vẫn tồn tại khá nhiều mâu thuẫn
thậm chí không thể dung hoà đợc.
Bảng 4:
Tổng sản phẩm trong nớc phân theo thành phần
kinh tế
Năm
199
5 1998 1999 2000 2001
Tỷ
đồng Cơ cấu
Tỷ
đồng Cơ cấu
Tỷ
đồng Cơ cấu
Tỷ
đồng Cơ cấu
Tỷ
đồng Cơ cấu
Tổng số
228892 100.00 361017 100.00 399942 100.00 441646 100.00 484493 100.00
Kinh tế Nhà n-
ớc
91977 40.18 144407 40.00 154927 38.74 170141 38.52 186958 38.59
Kinh tế tập thể
23020 10.06 32131 8.90 35347 8.84 37907 8.58 39763 8.21
Kinh tế t nhân
7139 3.12 12351 3.41 13461 3.37 14943 3.38 18256 3.77
Kinh tế cá thể
82447 36.02 122112 33.83 131706 32.92 142705 32.31 155655 31.13
Kinh tế hỗn hợp
9881 4.32 13802 3.83 15543 3.89 17324 3.92 20337 4.20
Kinh tế có vốn
đầu t nớc ngoài
14428 6.30 36214 10.03 48958 12.24 58626 13.27 63524 13.11
So sánh năm 1995 và năm 2001 chúng ta thấy có nhiều sự khác biệt
trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nớc nếu phân theo thành phần kinh tế. Tuy
nhiên tính cho đến thời điểm năm 2001 thì hai thành phần kinh tế Nhà nớc và
kinh tế cá thể vẫn chiếm tới 70% tổng sản phẩm quốc dân. Thành phần kinh tế
t nhân và kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài vẫn chỉ đạt khoảng 17% cơ cấu sản
phẩm trong nớc. Mặc dù vậy so với thời điểm năm 1995, hai thành phần này
chỉ chiếm cha đầy 10% thì đã có sự phát triển lớn đặc biệt là sự tăng trởng của
khu vực kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Tính ra trong vòng 6 năm tổng sản
phẩm của khu vực kinh tế này đã tăng 440% tức là tăng 4.4 lần. Cơ cấu trong
GDP cũng tăng gấp đôi. Đó là những hiệu quả dễ thấy của chính sách khuyến
khích đầu t nớc ngoài. Mặc dù vẫn còn khá nhiều bất cập và cũng cha thực sự
thông thoáng khi so sánh với các nớc Đông Nam á khác nhng nói chung đã đ-
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét