Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014

giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng công thương hoàn kiếm


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng công thương hoàn kiếm": http://123doc.vn/document/1041963-giai-phap-mo-rong-thanh-toan-quoc-te-theo-phuong-thuc-tin-dung-chung-tu-tai-ngan-hang-cong-thuong-hoan-kiem.htm


hiện giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau mới được thực hiện, góp phần
thúc đẩy ngoại thương phát triển. TTQT trở thành một nhân tố quan trọng để
đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại trong điều kiện quan hệ kin tế
quốc tế ngày càng được mở rộng.
• Các bên tham gia phải lựa chọn đồng tiền, địa điểm, phương tiện,
phương thức và thời gian thanh toán
Khi tiến hành hoạt động TTQT, cần phải xác định 5 vấn đề quan trọng,
đó là: đồng tiền, phương tiện, địa điểm, thời gian và phương thức thanh toán.
Lựa chọn đồng tiền nào là một vấn đề quan trọng, vì không phải bất kỳ đồng
tiền của nước nào cũng có khả năng thực hiện TTQT, mà đồng tiền đó phải là
đồng tiền mạnh, được các nước thừa nhận thực hiện trong hoạt động TTQT,
tiếp đến lựa chọn đồng tiền nào để phù hợp với nội dung cụ thể của hoạt động
TTQT nhằm mang lại hiệu quả (thanh toán nhanh, hạn chế rủi ro đến mức
thấp nhất, đáp ứng được lợi ích của các bên ). Do vậy, khi ký kết các hợp
đồng thương mại, tín dụng, hay các dịch vụ, các bên đàm phán thường thống
nhất về đồng tiền được dùng trong giao dịch là đồng tiền của nước nhập khẩu,
nước xuất khẩu hay nước thứ ba.
• Gặp nhiều rủi ro do chịu sự chi phối của nhiều yếu tố
Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gặp nhiều rủi ro do sự biến
động của tiền tệ, sự bất ổn chính trị của một quốc gia, do sự khác biệt về luật
pháp, cơ chế chính sách, do vị trí địa lý của các bên tham gia cách nhau làm
hạn chế việc tìm hiểu khả năng thanh toán của con nợ Do vậy nghiệp vụ bảo
lãnh của ngân hàng, hoạt động tín dụng của các tổ chức tiền tệ, tài chính quốc
tế ra đời như là một yếu tố không thể thiếu để hỗ trợ cho hoạt động TTQT.
Có thể khẳng định, TTQT là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt
động thương mại liên hoàn của một nền kinh tế mở và gắn kết chặt chẽ với
các giao dịch thương mại quốc tế. TTQT là cầu nối giữa người sản xuất và
người tiêu dùng thông qua chi trả lẫn nhau, thông qua đó, toàn bộ hoặc một
phần giá trị của hàng hoá và dịch vụ trao đổi được thực hiện. TTQT đã góp
5
phần chủ yếu để tạo nên sự liên tục của quá trình tái sản xuất và đẩy nhanh
quá trình giao thương hàng hoá quốc tế.
 Vai trò của TTQT đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Ngày nay, cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ kinh doanh và dịch
vụ trong nước, xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế ra đời và phát triển, trong đó TTQT là mảng
hoạt động có vai trò quan trọng đối với mỗi ngân hàng trong bối cảnh cạnh
tranh quyết liệt giữa các ngân hàng.
Thứ nhất, TTQT là nghiệp vụ bổ sung, hỗ trợ cho các mặt hoạt động
khác của ngân hàng, chẳng hạn như khi phát triển hoạt động TTQT sẽ tăng
cường hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu, phát triển hoạt động kinh doanh
ngoại tệ, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thương, tài trợ thương mại và các
hoạt động ngân hàng quốc tế khác.
Thứ hai, hoạt động TTQT giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa
dạng của khách hàng về các dịch vụ tài chính có liên quan tới TTQT. Trên cơ
sở đó tăng doanh thu, nâng cao uy tín cho ngân hàng và tạo dựng niềm tin cho
khách hàng. Điều đó không chỉ giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động
mà còn là một ưu thế tạo nên sức cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị
trường. TTQT là một nghiệp vụ phức tạp, trong đó ngân hàng không chỉ là
trung gian tạo nên sự tin tưởng giữa người mua và người bán thông qua quan
hệ của mình với các ngân hàng khác mà các ngân hàng cần phải đẩy mạnh
công tác tư vấn, giúp khách hàng lựa chọn phương thức thanh toán hiệu quả
nhất. Quá trình thanh toán diễn ra thuận lợi, người bán nhận đủ tiền, người
mua nhận được hàng hoá đúng số lượng, chất lượng và thời gian sẽ chứng tỏ
được khả năng của ngân hàng trong hoạt động của mình.
Thứ ba, TTQT còn tạo điều kiện hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.
Các ngân hàng sẽ áp dụng công nghệ tiên tiến để hoạt động TTQT được thực
hiện nhanh chóng, kịp thời và chính xác, nhằm phân tán rủi ro, góp phần mở
rộng quy mô và mạng lưới ngân hàng.
Thứ tư, hoạt động TTQT làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Khi
thực hiện nghiệp vụ TTQT, ngân hàng có thể thu được nguồn vốn ngoại tệ
6
tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ TTQT với các ngân hàng
dưới hình thức các khoản ký quỹ chờ thanh toán.
Thứ sáu, hoạt động TTQT cũng làm tăng cường mối quan hệ đối ngoại
của ngân hàng, tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng, nâng cao uy
tín trên trường quốc tế, trên cơ sở đó khai thác nguồn tài trợ của các ngân
hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng
nhu cầu về vốn của ngân hàng.
1.1.1 Khái niệm chung về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Phương thức tín dụng chứng từ là một trong những hình thức thanh toán
quốc tế được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế. Đó là một sự thoả
thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của
một khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định
cho người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối
phiếu do người này kí phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình
cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các điều khoản và
điều kiện đề ra trong thư tín dụng.
Thư tín dụng (Letter of credit - L/C) là một chứng thư trong đó ngân
hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình bộ chứng
từ phù hợp với nội dung L/C. Chính vì vậy, người ta còn gọi phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ là thanh toán L/C.
Theo điều 2 UCP 600: “Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận bất kỳ,
cho dù được mô tả hoặc gọi tên như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn
và không huỷ ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất
trình phù hợp”.
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
+ Người mua (người xin mở L/C, người nhập khẩu): là người tiếp nhận
hàng hoá, dịch vụ. Tại Việt Nam, theo Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày
17/8/1998 của Chính phủ về Quản lý ngoại hối, Luật thương mại 1997, Nghị
định số 57/1998 về vấn đề XNK trong thời kỳ mới, quy định người yêu cầu
mở L/C là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt
Nam có giấy phép kinh doanh nhập khẩu hàng hoá phải phù hợp với chính
7
sách của Nhà nước và các quy định hiện hành của Nhà nước có liên quan đến
vay trả nợ nước ngoài. Theo quy chế mở thư tín dụng hàng trả chậm được ban
hành theo Quyết định số 207 ngày 1/7/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, đối tượng được ngân hàng mở L/C trả chậm là: người yêu
cầu mở L/C có thể uỷ quyền cho một người khác, người đó là ngân hàng
thương mại ở nước người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng đại lý của mình ở
nước ngoài phát hành L/C quá cảnh.
- Quyền lợi và nghĩa vụ của người mua: lập bộ hồ sơ yêu cầu mở L/C trên
cơ sở các điều khoản trong hợp đồng thương mại và gửi đến ngân hàng yêu
cầu mở L/C. Tiếp nhận bộ chứng từ hàng xuất khẩu và thanh toán tiền cho
ngân hàng, sử dụng bộ chứng từ hàng xuất khẩu để nhận hàng.
- Vai trò: Là một trong các bên làm phát sinh quan hệ mua bán và hoạt
động thanh toán.
+ Người bán (người hưởng lợi, người xuất khẩu): là người cung cấp hàng
hóa, dịch vụ.
- Quyền lợi và nghĩa vụ của người bán: gửi hàng theo như hợp đồng, lập
bộ chứng từ hàng xuất khẩu theo các điều kiện và điều khoản của L/C nhận
được, lập hối phiếu hoặc lệnh đòi tiền, gửi bộ chứng từ và hối phiếu hoặc lệnh
đòi tiền đó cho ngân hàng thông báo để chuyển đến ngân hàng phát hành L/C.
Được thanh toán tiền hàng khi ngân hàng mở L/C xác nhận là bộ chứng từ
hợp lệ.
- Vai trò: Là một trong các bên làm phát sinh quan hệ mua bán và hoạt
động thanh toán.
+ Ngân hàng mở L/C (Opening Bank): là ngân hàng được hai bên người
mua và người bán thỏa thuận lựa chọn và quy định trong hợp đồng thương
mại quốc tế, nếu không quy định trong hợp đồng thì người mua có quyền lựa
chọn.
- Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng này: căn cứ vào hồ sơ xin mở L/C
của người mua để lập L/C, sau đó thông báo và gửi bản gốc L/C cho người
bán, thông thường việc thông báo và gửi L/C cho người bán phải thông qua
một ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C tại nước xuất khẩu, không loại
8
trừ trường hợp ngân hàng mở L/C thông báo và gửi trực tiếp L/C cho người
bán. Sửa đổi, bổ sung L/C theo yêu cầu bằng văn bản của người bán, người
mua nếu có sự đồng ý của cả hai bên. Kiểm tra bộ chứng từ hàng xuất khẩu
người bán gửi đến, nếu bộ chứng từ đó phù hợp với những điều kiện và điều
khoản của L/C thì tiến hành thanh toán tiền hàng cho người bán hoặc ký chấp
nhận hối phiếu do người bán lập ra, sau đó sẽ lập lệnh đòi tiền người mua,
nếu bộ chứng từ không phù hợp thì từ chối thanh toán, hoặc từ chối ký chấp
nhận hối phiếu và thông báo cho ngân hàng thông báo biết những điểm không
phù hợp đó. Ngân hàng được hưởng một khoản thủ tục phí mở L/C hoặc sửa
đổi L/C và thu phí dịch vụ thanh toán. Ngân hàng được miễn trách trong
trường hợp ngân hàng rơi vào hoàn cảnh bất khả kháng như chiến tranh, đình
công, nổi loạn… nếu L/C đến đúng lúc đó, ngân hàng không chịu trách nhiệm
thanh toán bộ chứng từ hàng xuất khẩu đó, trừ khi đã có những qui định dự
phòng.
- Vai trò: là trung gian thanh toán, đồng thời là người đảm bảo thanh
toán bộ chứng từ hàng xuất khẩu nếu nó phù hợp với các điều kiện và điều
khoản của L/C.
+ Ngân hàng thông báo (Advising Bank): thường là ngân hàng đại lý của
ngân hàng mở L/C tại nước xuất khẩu.
- Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng này: Khi nhận được điện thông
báo (hoặc thư) của ngân hàng mở L/C, tiến hành kiểm tra mẫu điện (hoặc mẫu
chữ ký được ủy quyền trên thư), nếu phù hợp thì chuyển điện thông báo (hoặc
thư) và bản gốc L/C cho người bán. Ngân hàng thông báo chỉ có nghĩa vụ
chuyển nguyên văn bức điện (hoặc thư) và L/C đến cho người bán mà không
có nghĩa vụ phải dịch ra tiếng địa phương, ngân hàng không chịu trách nhiệm
với bất kỳ sai sót nào trong việc dịch ra tiếng địa phương bức điện (hoặc thư)
và L/C này. Khi nhận được bộ chứng từ hàng xuất khẩu từ người bán và hối
phiếu (hoặc lệnh đòi tiền) do người bán lập ra thì chuyển ngay cho ngân hàng
mở L/C, ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh do
chậm trễ hoặc mất mát bộ chứng từ trên đường đến ngân hàng mở L/C, miễn
9
là chứng minh được mình đã gửi nguyên vẹn và đứng hạn bộ chứng từ đó qua
bưu điện. Ngân hàng thông báo được hưởng một khoản phí thông báo.
+ Ngân hàng trả tiền (Paying Bank): Là ngân hàng mở L/C và có thể là
một ngân hàng khác do ngân hàng mở L/C uỷ nhiệm.
Nếu địa điểm trả tiền quy định tại nước người xuất khẩu thì ngân hàng
trả tiền thường là ngân hàng thông báo. Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền
giống như ngân hàng mở L/C khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu
gửi đến.
+ Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): Là ngân hàng đứng ra xác
nhận cho ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của nó. Ngân hàng xác nhận thường
là một ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế.
Ngân hàng mở L/C phải yêu cầu ngân hàng khác xác nhận cho mình sẽ làm
giảm uy tín của ngân hàng mình. Muốn xác nhận, ngân hàng mở L/C phải trả
thủ tục phí cao và đôi khi còn phải đặt trước, mức đặt tiền trước có thể đạt tới
100% trị giá của thư tín dụng.
Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp, còn có thể có các ngân hàng khác tham
gia vào phương thức thanh toán L/C như ngân hàng chấp nhận (Accepting
bank), ngân hàng chiết khấu (Negotiating bank), ngân hàng hoàn tiền
(Reimbursing bank)
1.1.2 Nội dung cần kiểm tra thư tín dụng
 Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C
+ Số hiệu:
Mỗi thư tín dụng có số hiệu riêng của nó nhằm tạo thuận tiện trong việc
trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình giao dịch thanh
toán. Số hiệu này cũng được dùng để ghi vào các chứng từ liên quan trong bộ
chứng từ thanh toán.
+ Địa điểm mở L/C: là nơi mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền
cho người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn
luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó.
+ Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở
L/C với người xuất khẩu, bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C, cuối cùng là
10
căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở
L/C có đúng hạn như đã qui định trong hợp đồng không.
 Tên, địa chỉ của người có liên quan đến phương thức tín dụng
chứng từ
Những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ được
chia làm hai loại: một là các thương nhân, hai là các ngân hàng.
Các thương nhân bao gồm những người nhập khẩu là người yêu cầu mở
L/C, người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C.
Các ngân hàng tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có
ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận, ngân hàng trả
tiền
 Số tiền của thư tín dụng
Số tiền của L/C được ghi bằng số và chữ, thống nhất với nhau. Không
thể chấp nhận một thư tín dụng có số tiền bằng số và chữ mâu thuẫn nhau.
Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng, vì cùng một tên gọi là đồng Đôla
nhưng trên thế giới có nhiều loại đồng Đôla như: Đôla Mỹ, Đôla Úc
Theo bản "Qui tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ
1993" qui định thì những từ "khoảng chừng", "độ khoảng" hoặc những từ ngữ
tương tự được dùng để chỉ mức độ số tiền của thư tín dụng, nên hiểu là cho
phép xê dịch hơn kém không quá 10% tổng số tiền đó.
Ngoài ra, bản qui tắc còn qui định "trừ khi thư tín dụng qui định số
lượng hàng giao không được hơn kém, còn lại thì sẽ được phép có một khoản
dung sai trong phạm vi hơn kém 5%, miễn là tổng số tiền chi trả luôn luôn
không được vượt quá số tiền của thư tín dụng. Không được áp dụng dung sai
này khi thư tín dụng qui định số lượng tính bằng đơn vị bao, kiện đã được nói
rõ hoặc tính bằng đơn vị chiếc".
 Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong
thư tín dụng
Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là thời hạn mà ngân hàng mở L/C
cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình bộ
chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những qui định trong L/C. Thời
11
hạn hiệu lực của L/C bắt đầu tính từ ngày mở L/C đến ngày hết hạn hiệu lực
L/C.
Cần phải chú ý, có nước qui định nếu thời hạn hiệu lực L/C dưới 3 tháng,
thì phí thông báo L/C chỉ phải chịu là 0,1%; còn trên 3 tháng đến 6 tháng thì
là 0,2%. Vì vậy cần phải xác định một thời hạn hiệu lực của L/C cho hợp lý,
có nghĩa nó vừa tránh đọng vốn cho người nhập khẩu, vừa không gây khó
khăn cho việc xuất trình chứng từ của người nhập khẩu. Việc xác định này
cần thoả mãn các nguyên tắc sau đây:
+ Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không
trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C.
+ Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng thời gian hợp lí, không được
trùng với ngày giao hàng. Thời gian hợp lý này được tính tối thiểu bằng tổng
số của từng ngày cần có để thông báo mở L/C, số ngày lưu L/C ở ngân hàng
thông báo, số ngày chuẩn bị hàng để giao cho người nhập. Nếu hàng xuất là
mặt hàng phức tạp, phải điều động từ xa và phải tái chế biến lại trước khi
giao, nếu thời điểm giao hàng xuất là hàng sản phẩm công nghiệp thì không
cần thiết đòi hỏi số ngày chuẩn bị quá lớn.
+ Ngày hết hạn hiệu lực L/C phải sau ngày giao hàng thời gian hợp lý.
Thời gian này bao gồm số ngày chuyển chứng từ nơi giao hàng đến cơ quan
của người xuất khẩu, số ngày lập bộ chứng từ, số ngày vận chuyển chứng từ
đến ngân hàng mở L/C (hay ngân hàng trả tiền), số ngày lưu giữ chứng từ tại
ngân hàng thông báo…
Thời hạn trả tiền của L/C là thời hạn trả tiền ngay hoặc trả tiền sau. Điều
này hoàn toàn phụ thuộc vào quy định của hợp đồng. Nếu việc đòi tiền bằng
hối phiếu thì thời hạn trả tiền được quy định ở yêu cầu ký phát hối phiếu.
Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C nếu như trả
tiền ngay, hoặc có thể là nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C nếu như trả tiền
có kỳ hạn. Song điều quan trọng là những hối phiếu có kỳ hạn phải đựơc xuất
trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C.
12
Thời hạn giao hàng cũng được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán
quy định như đã phân tích ở trên, thời hạn giao hàng và thời hạn hiệu lực của
L/C có quan hệ chặt chẽ.
Những nội dung về hàng hoá như tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá
cả, qui cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu cũng được ghi trong thư tín
dụng.
1.1.3 Phân loại thư tín dụng
Căn cứ vào tính chất thông dụng của thư tín dụng, người ta phân ra:
 Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C)
Là loại thư tín dụng mà người yêu cầu mở có toàn quyền đề nghị ngân
hàng mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nó mà không phải báo
trước cho người hưởng lợi biết (việc đó phải diễn ra trước khi thư tín dụng
được thanh toán). Như vậy loại thư tín dụng có thể huỷ ngang thuộc loại cam
kết không bị ràng buộc trách nhiệm pháp lý. Đứng trên giác độ quyền lợi của
người bán, loại thư tín dụng này không đảm bảo quyền lợi cho họ, do đó ngày
nay trong thương mại quốc tế nó ít được sử dụng.
 Thư tín dụng không thể huỷ ngang ( Irrevocable L/C )
Đây là loại thư tín dụng mà sau khi nó đã được mở ra thì mọi việc liên
quan tới sửa đổi bổ sung hoặc huỷ bỏ, ngân hàng mở chỉ có thể được tiến
hành trên cơ sở sự thoả thuận của các bên có liên quan.
Như vậy, nếu không có sự nhất trí của người hưởng lợi về những nội
dung cần sửa đổi trong thư tín dụng thì ngân hàng mở không được phép thực
hiện theo yêu cầu đơn phương của người yêu cầu mở. Do đó, quyền lợi của
người bán được đảm bảo.
Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại được áp dụng rất phổ biến
trong thương mại quốc tế ngày nay.
Theo qui định trong bản “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ”: Nếu không có ghi chú đặc biệt gì khác về loại thư tín dụng muốn
mở thì ngân hàng được quyền hiểu đó là thư tín dụng không thể huỷ ngang.
 Thư tín dụng có xác nhận (Confirming L/C)
Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một ngân hàng
13
khác xác nhận trả tiền cho người thụ hưởng theo yêu cầu của ngân hàng mở
thư tín dụng đó.
Do có hai ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người hưởng lợi cho
nên loại thư tín dụng này được coi là đảm bảo quyền lợi cho người bán. Tuy
nhiên, cũng cần lưu là để có sự xác nhận như vậy phải thanh toán một khoản
phí (phí xác nhận) nhất định đối với ngân hàng xác nhận. Trên thực tế, nhu
cầu xác nhận thư tín dụng này phụ thuộc nhiều yếu tố song chủ yếu tuỳ thuộc
vào mức độ tín nhiệm và tình hình tài chính của ngân hàng mở thư tín dụng.
Ngoài ra còn có một số loại L/C đặc biệt:
 Thư tín dụng có điều khoản đỏ (Red clause L/C)
Là loại thư tín dụng có một điều khoản đặc biệt, thể hiện ở chỗ: ngân
hàng phát hành sẽ chuyển tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng thông báo (hoặc
ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu) để thực hiện ứng trước cho người
hưởng một số tiền nhất định trước khi giao hàng. Số tiền ứng trước được thực
hiện theo yêu cầu của người mở L/C. Rủi ro trong thanh toán L/C có điều
khoản đỏ là số tiền ứng trước có thể bị sử dụng sai mục đích, chứng từ do nhà
xuất khẩu xuất trình có thể không phù hợp hoặc người xuất khẩu không hoàn
thành được việc sản xuất hàng hóa mà cũng không hoàn lại được tiền ứng
trước cho ngân hàng… Hiện nay, Red Clause được sử dụng khá rộng rãi trong
thanh toán XNK, nhất là với hàng hóa nông sản, lâm sản có thời vụ như lúa,
gạo, cà phê, hạt điều…
 Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C)
Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà ngân hàng trả tiền được
phép trả một phần hay toàn bộ số tiền của thư tín dụng cho một hay nhiều
người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên.
Một thư tín dụng muốn được chuyển nhượng phải có lệnh đặc biệt của
ngân hàng mở và trên thư tín dụng phải ghi “có thể chuyển nhượng được”.
Lưu ý việc chuyển nhượng chỉ được thực hiện một lần cho thư tín dụng đó.
 Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C)
Là loại thư tín dụng không thể hủy ngang mà sau khi đã sử dụng xong
hoặc đã hết thời hạn hiệu lực lại tự động có giá trị như cũ và được tiếp tục sử
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét