Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

Tài liệu Giáo trình: Quản trị sản xuất pptx

Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

4
lại, nếu không sản xuất các sản phẩm vật chất thì đều bị xếp vào loại các đơn vị phi sản xuất.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, quan niệm như vậy không còn phù hợp nữa.
Như vậy, về thực chất, sản xuất chính là quá trình chuyển hoá các yếu tố đầu vào, biến
chúng thành các đầu ra dưới dạng sản phẩm hoặc dịch vụ. Quá trình này được thể hiện trong hình
1.1.







Hình 1.1: Quá trình sản xuất
1.1.2. Phân loại sản xuất
Trong thực tiễn có rất nhiều kiểu, dạng sản xuất khác nhau. Sự khác biệt về kiểu, dạng sản
xuất có thể do sự khác biệt về trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, về tính chất
sản phẩm
Mỗi kiểu, dạng sản xuất đòi hỏi phải áp dụng một phương pháp quản trị thích hợp. Do đó
phân loại s
ản xuất là một yếu tố quan trọng, là cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn phương pháp quản
trị sản xuất phù hợp. Cũng vì lý do trên, việc phân loại này phải được tiến hành trước khi thực
hiện một dự án quản trị sản xuất. Sản xuất của một doanh nghiệp được đặc trưng trước hết bởi sản
phẩm của nó. Tuy nhiên người ta có thể th
ực hiện phân loại sản xuất theo các đặc trưng sau đây:
- Số lượng sản phẩm sản xuất
- Tổ chức các dòng sản xuất
- Mối quan hệ với khách hàng
- Kết cấu sản phẩm
- Khả năng tự chủ trong việc sản xuất sản phẩm
1. Phân loại theo số lượng sản xuất và tính chất lặp lại
Phân loại theo số lượng sản xuất và tính chất lặp lại là một cách phân loại có tính chất giao
nhau. Theo cách phân loại này ta có :
- Sản xuất đơn chiếc
- Sản xuất hàng khối
- Sản xuất hàng loạt

Thông qua quá trình
sản xuất các doanh
nghiệp chuyển hoá
các yếu tố đầu vào
thành kết quả đầu ra
Quá trình sản xuất
- Đất đai
- Lao động
- Vốn
- Trang thiết bị
- Nguyên nhiên vật
liệu
- Tiến bộ khoa học
- Nghệ thuật quản trị
Các yếu tố đầu vào

- Sản phẩm hữu
hình: Ti vi, tủ lạnh,
máy móc, thiết bị
- Dịch vụ: Bữa tiệc,
tư vấn pháp lý,
chăm sóc sức khoẻ
Kết quả đầu ra
Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

5
Ở đây cần chú ý số lượng lớn hay nhỏ có tính chất tương đối, chúng tuỳ thuộc vào đặc điểm
của từng loại sản phẩm. Với một số lượng sản phẩm nào đó người ta còn phải kể đến tính chất lặp
lại của quá trình sản xuất, như đã chỉ ra trong bảng 1.1.
Bảng 1.1
MỐI QUAN HỆ GIỮA LOẠI HÌNH SẢN XUẤT VÀ TÍNH CHẤ
T LẶP LẠI
Loại hình sản xuất
Quá trình đưa vào sản xuất
có tính chất lặp lại
Quá trình đưa vào sản xuất không
có tính chất lặp lại
Sản xuất đơn chiếc
+ Động cơ tên lửa
+ Bom nguyên tử
+ Công trình công cộng
+ Khuôn dập
Loại vừa và nhỏ
+ Dụng cụ
+ Máy công cụ
+ Sản phẩm cơ khí, điện tử chuyên
dùng
Loại lớn + Đồ điện dân dụng
+ Báo, tạp chí
+ Sản phẩm mốt

a. Sản xuất đơn chiếc
Đây là loại hình sản xuất diễn ra trong các doanh nghiệp có số chủng loại sản phẩm được
sản xuất ra rất nhiều nhưng sản lượng mỗi loại được sản xuất rất nhỏ. Thường mỗi loại sản phẩm
người ta chỉ sản xuất một chiếc hoặc vài chiếc. Quá trình sản xuất không lặp lại, thường đượ
c tiến
hành một lần nên chúng có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Khâu chuẩn bị kỹ thuật sản xuất và khâu sản xuất thường không được tách rời. Không có
sự chế tạo, thử nghiệm sản phẩm trước khi đưa vào sản xuất như ở trong các loại hình sản xuất
cao hơn.
- Quy trình công nghệ thường được lập ra một cách sơ sài, trong nhiều trường hợp chúng
c
ần được chính xác hoá nhờ kinh nghiệm của người công nhân.
- Trình độ nghề nghiệp của người công nhân cao vì họ phải làm nhiều loại công việc khác
nhau. Nhưng do không được chuyên môn hoá nên năng suất lao động thường thấp.
- Máy móc thiết bị của doanh nghiệp chủ yếu là các thiết bị vạn năng được sắp xếp theo
từng loại máy có cùng tính năng, tác dụng phù hợp với những công việc khác nhau và thay đổi
luôn luôn.
- Đầu tư ban đầ
u nhỏ và tính linh hoạt của hệ thống sản xuất cao. Đây là ưu điểm chủ yếu
của loại hình sản xuất này.
b. Sản xuất hàng khối
Đây là loại hình sản xuất đối lập với loại hình sản xuất đơn chiếc, diễn ra trong các doanh
nghiệp có số chủng loại sản phẩm được sản xuất ra ít thường chỉ có một vài loại sản phẩm vớ
i khối
lượng sản xuất hàng năm rất lớn. Quá trình sản xuất rất ổn định, ít khi có sự thay đổi về kết cấu sản
phẩm, yêu cầu kỹ thuật gia công sản phẩm cũng như nhu cầu sản phẩm trên thị trường. Sản xuất
Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

6
thép, sản xuất giấy, sản xuất điện, xi măng là những ví dụ tương đối điển hình về loại hình sản
xuất này. Các doanh nghiệp có loại hình sản xuất này thường có những đặc điểm chính sau:
- Vì gia công chế biến ít loại sản phẩm với khối lượng lớn nên thiết bị máy móc thường là
các loại thiết bị chuyên dùng hoặc các thiết bị tự động, được sắ
p xếp thành các dây chuyền khép
kín cho từng loại sản phẩm.
- Khâu chuẩn bị kỹ thuật sản xuất như thiết kế sản phẩm, chế tạo các mẫu thử sản phẩm và
quy trình công nghệ gia công sản phẩm được chuẩn bị rất chu đáo trước khi đưa vào sản xuẩt
đồng loại. Như vậy khâu chuẩn bị kỹ thuật sản xuất và khâu sản xuất là hai giai đoạ
n tách rời.
- Do tổ chức sản xuất theo kiểu dây chuyền nên trình độ chuyên môn hoá người lao động
cao, mỗi người công nhân thường chỉ thực hiện một nguyên công sản xuất ổn định trong khoảng
thời gian tương đối dài nên trình độ nghề nghiệp của người lao động không cao nhưng năng suất
lao động thì rất cao.
- Chất lượng sản phẩm ổn định, giá thành hạ. Đây là những ưu điể
m lớn nhất của loại hình
sản xuất này.
- Nhu cầu vốn đầu tư ban đầu vào các thiết bị chuyên dùng rất lớn. Đây là nhược điểm lớn
nhất của loại hình sản xuất này, khi nhu cầu thị trường thay đổi, doanh nghiệp rất khó khăn trong
việc chuyển đổi sản phẩm. Do vậy, chúng thường chỉ được áp dụng đối với các sản phẩm thông
dụng có nhu cầ
u lớn và ổn định.
c. Sản xuất hàng loạt (Sản xuất loại nhỏ và loại trung bình) - Batch
Sản xuất hàng loạt là loại hình sản xuất trung gian giữa sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng
khối, thường áp dụng đối với các doanh nghiệp có số chủng loại sản phẩm được sản xuất ra tương
đối nhiều nhưng khối lượng sản xuất hàng năm mỗi loạ
i sản phẩm chưa đủ lớn để mỗi loại sản
phẩm có thể được hình thành một dây chuyền sản xuất độc lập. Mỗi bộ phận sản xuất phải gia
công chế biến nhiều loại sản phẩm được lặp đi lặp lại theo chu kỳ. Với mỗi loại sản phẩm người ta
thường đưa vào sản xuất theo từng "loạt" nên chúng mang tên "sả
n xuất hàng loạt". Loại hình sản
xuất này rất phổ biến trong ngành công nghiệp cơ khí dụng cụ, máy công cụ, dệt may, điện dân
dụng, đồ gỗ nội thất với những đặc trưng chủ yếu sau:
- Máy móc thiết bị chủ yếu là thiết bị vạn năng được sắp xếp bố trí thành những phân xưởng
chuyên môn hoá công nghệ. Mỗi phân xưởng đảm nhận một giai đo
ạn công nghệ nhất định của
quá trình sản xuất sản phẩm hoặc thực hiện một phương pháp công nghệ nhất định.
- Chuyên môn hoá sản xuất không cao nhưng quá trình sản xuất lặp đi lặp lại một cách
tương đối ổn định nên năng suất lao động tương đối cao.
- Vì mỗi bộ phận sản xuất gia công nhiều loại sản phẩm khác nhau về yêu cầu kỹ thuậ
t và
quy trình công nghệ nên tổ chức sản xuất thường rất phức tạp. Thời gian gián đoạn trong sản xuất
lớn, chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm tồn kho trong nội bộ quá trình sản xuất lớn Đó là những vấn
đề lớn nhất trong quản lý sản xuất loại hình này.
- Đồng bộ hoá sản xuất giữa các bộ phận sản xuất là một thách thức lớn khi xây dự
ng một
phương án sản xuất cho loại hình sản xuất này.
Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

7
- Vì là một loại hình trung gian của hai loại hình trên nên nó cũng có những đặc điểm trung
gian của sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng khối.
2. Phân loại theo hình thức tổ chức sản xuất:
Theo cách phân loại này chúng ta có ba dạng sản xuất chủ yếu sau đây:
- Sản xuất liên tục
- Sản xuất gián đoạn
- Sản xuất theo dự án
Trong thực tế còn có thể có các dạng sản xuất trung gian.
a. S
ản xuất liên tục (Flow shop)
Sản xuất liên tục là một quá trình sản xuất mà ở đó người ta sản xuất và xử lý một khối
lượng lớn một loại sản phẩm hoặc một nhóm sản phẩm nào đó. Thiết bị được lắp đặt theo dây
chuyền sản xuất làm cho dòng di chuyển của sản phẩm có tính chất thẳng dòng. Vì các xưởng
được sắp xếp thẳng dòng nên tiếng Anh gọi là Flow shop.
Trong dạng sản xuất này, máy móc thiết bị và các tổ hợp sản xuất được trang bị chỉ để sản
xuất một loại sản phẩm vì vậy hệ thống sản xuất không có tính linh hoạt. Để hạn chế sự tồn ứ chế
phẩm và khơi thông dòng chuyển sản phẩm trong nội bộ quá trình sản xuất, cân bằng năng suất
trên các thiết bị và các công đoạn sả
n xuất phải được tiến hành một cách thận trọng và chu đáo.
Dạng sản xuất liên tục thường đi cùng với tự động hoá quá trình vận chuyển nội bộ bằng hệ
thống vận chuyển hàng hoá tự động. Tự động hoá nhằm đạt được một giá thành sản phẩm thấp, một
mức chất lượng cao và ổn định, mức tồn đọng chế phẩm thấ
p và dòng luân chuyển sản phẩm nhanh.
Trong các doanh nghiệp dạng sản xuất liên tục bắt buộc phải thực hiện phương pháp sửa
chữa dự phòng máy móc thiết bị (sửa chữa trước khi máy hỏng) để tránh sự gián đoạn hoàn toàn
của quá trình sản xuất.
b. Sản xuất gián đoạn (Job shop)
Sản xuất gián đoạn là một hình thức tổ chức sản xuất ở đó người ta xử
lý, gia công, chế biến
một số lượng tương đối nhỏ sản phẩm mỗi loại, song số loại sản phẩm thì nhiều, đa dạng. Quá
trình sản xuất được thực hiện nhờ các thiết bị vạn năng (máy tiện, máy phay). Việc lắp đặt thiết bị
được thực hiện theo các bộ phận chuyên môn hoá chức năng. Bộ phận chuyên môn hoá chức năng
là bộ phận ở
đó tập hợp tất cả các máy móc, thiết bị có cùng chức năng, cùng nhiệm vụ (máy tiện,
máy phay, ) dòng di chuyển của sản phẩm phụ thuộc vào thứ tự các nguyên công cần thực hiện.
Trong dạng sản xuất này người ta bố trí các bộ phận theo nhiệm vụ (Job shop), máy móc thiết bị
có khả năng thực hiện nhiều công việc khác nhau, nó không phải là để chuyên môn hoá cho một
loại sản phẩm vì vậy tính linh hoạt c
ủa hệ thống sản xuất cao. Ngược lại rất khó cân bằng các
nhiệm vụ trong một quá trình sản xuất gián đoạn. Năng suất của các máy không bằng nhau làm
cho mức tồn đọng chế phẩm trong quá trình sản xuất tăng lên. Công nghiệp cơ khí và công nghiệp
may mặc là những ví dụ điển hình về dạng sản xuất này.
c. Sản xuất theo dự án
Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

8
Sản xuất theo dự án là một loại hình sản xuất mà ở đó sản phẩm là độc nhất (Ví dụ: đóng
một bộ phim, đóng một con tàu, viết một cuốn sách, ) và vì lẽ đó quá trình sản xuất cũng là duy
nhất, không lặp lại.
Nguyên tắc của tổ chức sản xuất theo dự án là tổ chức thực hiện các công việc và phối hợp
chúng sao cho giảm thời gian gián đoạn,
đảm bảo kết thúc dự án và giao nộp sản phẩm đúng thời hạn.
Trong dạng sản xuất này quá trình sản xuất không ổn định, cơ cấu tổ chức bị xáo trộn rất
lớn do chuyển từ dự án này sang dự án khác, tổ chức sản xuất phải đảm bảo tính chất linh hoạt cao
để có thể thực hiện đồng thời nhiều dự án sản xuất cùng một lúc. Sả
n xuất theo dự án có thể coi
như một dạng đặc biệt của sản xuất gián đoạn.
3. Phân loại theo mối quan hệ với khách hàng
Theo cách phân loại này chúng ta phân biệt hai dạng sản xuất chính sau:
- Sản xuất để dự trữ
- Sản xuất khi có yêu cầu ( đặt hàng).
a. Sản xuất để dự trữ
Sản xuất để dự trữ sản phẩm cuối cùng của một doanh nghiệ
p xảy ra khi:
- Chu kỳ sản xuất lớn hơn chu kỳ thương mại mà khách hàng yêu cầu. Chu kỳ sản xuất sản
phẩm là khoảng thời gian kể từ khi đưa sản phẩm vào gia công cho tới khi sản phẩm hoàn thành
và có thể giao cho khách hàng. Chu kỳ thương mại đó là khoảng thời gian kể từ khi khách hàng có
yêu cầu cho đến khi yêu cầu đó được phục vụ (thoả mãn), nói một cách khác, từ khi khách hàng
hỏi mua đến khi nhận đượ
c sản phẩm. Khi chu kỳ sản xuất dài hơn chu kỳ thương mại, cần phải
sản xuất trước (dựa trên kết quả của quá trình dự báo nhu cầu) để thoả mãn nhu cầu của khách
hàng nhanh nhất ngay khi xuất hiện một yêu cầu.
- Các nhà sản xuất muốn sản xuất một khối lượng lớn để giảm giá thành
- Nhu cầu về các loại sản phẩm có tính chất thời vụ, trong các giai
đoạn nhu cầu sản phẩm
trên thị trường thấp, sản phẩm không tiêu thụ được, các nhà sản xuất không muốn ngừng quá trình
sản xuất, sa thải công nhân, vì vậy họ quyết định sản xuất để dự trữ rồi tiêu thụ cho các kỳ sau,
khi nhu cầu trên thị trường tăng lên.
b. Sản xuất theo yêu cầu
Theo hình thức này quá trình sản xuất chỉ được tiến hành khi xuất hiện những yêu cầu c

thể của khách hàng về sản phẩm. Vì vậy nó tránh được sự tồn đọng của sản phẩm cuối cùng chờ
tiêu thụ. Dạng sản xuất này hiện nay được ưa chuộng và sử dụng nhiều hơn dạng sản xuất để dự
trữ bởi vì nó giảm được khối lượng dự trữ, giảm các chi phí tài chính nhờ đó mà giảm được giá
thành sản phẩm, nâng cao lợ
i nhuận. Vì vậy hãy lựa chọn hình thức sản xuất này khi có thể.
Trong thực tế, hình thức tổ chức sản xuất hỗn hợp tồn tại khá nhiều, ở đó người ta tận dụng
thời hạn chấp nhận được của khách hàng để lắp ráp hoặc thực hiện khâu cuối cùng của quá trình sản
xuất sản phẩm, hoặc để cá biệt hoá tính chất của sản phẩ
m (phần này được thực hiện theo những yêu
cầu của khách hàng); giai đoạn đầu được thực hiện theo phương pháp sản xuất để dự trữ.

Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

9









Hình 1.2: Hình thức tổ chức sản xuất hỗn hợp
4. Phân loại theo quá trình hình thành sản phẩm
Quá trình hình thành sản phẩm cũng được coi là một trong những căn cứ để phân loại sản
xuất của doanh nghiệp. Theo cách phân loại này người ta phân biệt bốn quá trình hình thành sản
phẩm trong sản xuất sau đây:
a. Quá trình sản xuất hội tụ: Trong trường hợp này một sản phẩm được ghép nối từ nhiều
cụ
m, nhiều bộ phận, tính đa dạng của sản phẩm cuối cùng nói chung là nhỏ, nhưng các cụm, các
bộ phận thì rất nhiều. Số mức kết cấu có thể thay đổi từ một đến hàng chục, ví dụ sản xuất các sản
phẩm đồ điện dân dụng và sản phẩm cơ khí,



Hình 1.3: Quá trình sản xuất hội tụ
b. Quá trình sản xuất phân kỳ: Đó là trường hợp mà các doanh nghiệp xuất phát từ một
hoặc một vài loại nguyên vật liệu nhưng lại cho ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Ví dụ trong
công nghiệp sữa, từ một loại nguyên liệu là sữa sản phẩm cuối cùng bao gồm nhiều loại với
những quy cách và bao bì khác nhau như pho mát, sữa chua, bơ,





Hình 1.4: Quá trình sản xuất phân kỳ

Chu
k

thươn
g

m
ại

Làm trước Làm theo
y
êu cầu
Chu
k

sản xuấ
t
SP cuối cùng
Sản phẩm
Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

10
c. QTSX phân kỳ có điểm hội tụ: Đó là trường hợp các doanh nghiệp xuất phát từ nhiều các
bộ phận, các cụm, các chi tiết tiêu chuẩn hoá hình thành một điểm hội tụ rồi xuất phát từ điểm hội
tụ đó sản phẩm cuối cùng của doanh nghiệp lại rất nhiều loại và đa dạng thậm chí cũng nhiều loại
như các yếu tố
đầu vào.VD: Công nghệ sản xuất ô tô.
Thông thường để quản lý loại doanh nghiệp này ta có thể áp dụng các phương pháp khác
nhau đối với các phần khác nhau. Ví dụ: Quản lý sản xuất để dự trữ đối với các phần hội tụ, quản
lý sản xuất theo đơn hàng đối với các phần phân kỳ. Kết cấu loại này thường gặp trong công nghệ
sản xuất ô tô, Từ các chi tiết bộ phận tiêu chuẩn hoá ngườ
i ta hình thành nhiều kiểu truyền động
khác nhau (hộp số) và nhiều loại mui xe, kính chắn giá khác nhau,







Hình 1.5: Quá trình sản xuất phân kỳ có điểm hội tụ
d. Quá trình sản xuất song song: Các doanh nghiệp có ít loại sản phẩm, ít loại nguyên liệu,
các thành phẩm cuối cùng được tập hợp từ rất ít các yếu tố, thậm chí từ một yếu tố. Công nghiệp
bao bì là một ví dụ điển hình về loại cấu trúc này. Một yếu tố đầu vào có 1 hoặc 1 số yếu tố đầu ra.



Hình 1.6: Quá trình sản xuất song song
5. Phân loại theo tính tự chủ
a. Nhà thiết kế chế tạo
Doanh nghiệp tự thiết kế các sản phẩm của mình, tự sản xuất và tiêu thụ. Doanh nghiệp loại
này cần một hệ thống quản lý sản xuất hoàn chỉnh có tính thích ứng cao bởi vì đó chính là điều
kiện để có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
b. Nhà thầu
Đó là các doanh nghiệp chỉ thực hi
ện một bộ phận các công việc sản xuất của người cấp
thầu (người cho thầu). Tuy nhiên doanh nghiệp nhận thầu có thể tự chủ trong việc mua sắm
nguyên vật liệu và các trang thiết bị cần thiết và có thể lựa chọn một phương pháp sản xuất phù
hợp để thoả mãn yêu cầu đặt ra của người cho thầu về sản phẩm và dịch vụ.
c. Người gia công
Sản phẩm cuối
cùng đa dạng
Tiêu chuẩn hoá
Các
cụm,
các bộ
phận
Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

11
Cũng giống như người nhận thầu, người gia công chỉ thực hiện một phần công việc sản xuất
của người giao việc (doanh nghiệp chủ). Tuy nhiên họ không có quyền tự chủ trong việc mua bán
nguyên vật liệu. Tất cả cái đó được cung cấp bởi doanh nghiệp chủ, thậm chí cả máy móc thiết bị
sản xuất cũng có thể được cấp bởi doanh nghiệp chủ.
1.2 THỰC CHẤT CỦA QUẢN TRỊ SẢN XUẤT
1.21 Khái niệm quản trị sản xuất
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường, bằng nguồn lực, các
phương tiện vật chất và tài chính của mình có thể thoả mãn những nhu cầu của khách hàng bằng
cách sản xuất sản phẩm và cung cấp các dịch vụ. Hay nói cách khác doanh nghiệp là một hệ thống
chuyển hoá các đầu vào thành đầu ra dưới dạng sản phẩm và dịch vụ.
Mỗi doanh nghiệp là một h
ệ thống có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường bên ngoài và có
cấu trúc bên trong gồm nhiều phân hệ khác nhau. Để thực hiện mục tiêu của mình, mỗi doanh
nghiệp phải tổ chức tốt các bộ phận cấu thành nhằm thực hiện những chức năng cơ bản.
Sản xuất là một trong những phân hệ chính có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra sản phẩm
hoặc cung cấ
p dịch vụ cho xã hội. Quản lý hệ thống sản xuất sản phẩm, dịch vụ là chức năng,
nhiệm vụ cơ bản của từng doanh nghiệp. Hình thành, phát triển và tổ chức điều hành tốt hoạt động
sản xuất là cơ sở và yêu cầu thiết yếu để mỗi doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển trên thị
trường.
Quản trị sản xu
ất chính là quá trình thiết kế, hoạch định, tổ chức điều hành và kiểm tra
theo dõi hệ thống sản xuất nhằm thực hiện những mục tiêu sản xuất đã đề ra. Hay nói cách khác,
quản trị sản xuất là tổng hợp các hoạt động xây dựng hệ thống sản xuất và quản trị quá trình sử
dụng các yếu tố đầu vào tạo thành các sản phẩm, dịch vụ ở đầu ra theo yêu cầu của khách hàng
nhằm thực hiện các mục tiêu đã xác định.
Cũng giống như các phân hệ khác, hệ thống sản xuất bao gồm nhiều yếu tố cấu thành có
mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ với nhau. Phân hệ sản xuất được biểu diễn trong sơ đồ sau:












Hình 1.7: Sơ đồ hệ thống sản xuất
Đầu ra
Kiểm tra
Biến đổi
ngẫu nhiên
Quá trình biến đổi
Thông tin
phản hồi
Thông tin
phản hồi
Đầu vào
Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

12
Yếu tố trung tâm của quản lý sản xuất là quá trình biến đổi. Đó là quá trình chế biến,
chuyển hoá các yếu tố đầu vào hình thành hàng hoá hoặc dịch vụ mong muốn, đáp ứng nhu cầu
của xã hội. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc thiết kế, tổ chức và
quản lý quá trình biến đổi này.
Các yếu tố đầu vào rất đa dạng g
ồm có nguồn tài nguyên thiên nhiên, con người, công nghệ,
kỹ năng quản lý và nguồn thông tin. Chúng là điều kiện cần thiết cho bất kỳ quá trình sản xuất
hoặc dịch vụ nào. Muốn quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cần phải tổ
chức, khai thác sử dụng các yếu tố đầu vào hợp lý, tiết kiệm nhất.
Đầu ra chủ yếu gồm hai loại là sản phẩm và dịch vụ. Ngoài nh
ững sản phẩm và dịch vụ
được tạo ra, sau mỗi quá trình sản xuất, còn có các loại phụ phẩm khác có thể có lợi hoặc không
có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đôi khi đòi hỏi phải có chi phí rất lớn cho việc xử lý,
giải quyết chúng, như phế phẩm, chất thải,
Thông tin phản hồi là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống sản xuất của doanh
nghiệ
p. Đó là những thông tin cho biết tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất trong thực tế của
doanh nghiệp.
Các đột biến ngẫu nhiên có thể làm rối loạn hoạt động của toàn bộ hệ thống sản xuất dẫn
đến không thực hiện được những mục tiêu dự kiến ban đầu. Chẳng hạn thiên tai, hạn hán, lũ lụt,
chiến tranh, hoả hoạn,
Nhiệm vụ của qu
ản trị sản xuất là thiết kế và tổ chức hệ thống sản xuất nhằm biến đổi đầu
vào thành các yếu tố đầu ra sau mỗi quá trình biến đổi, nhưng với một lượng lớn hơn số lượng đầu
tư ban đầu. Giá trị gia tăng là yếu tố quan trọng nhất, là động cơ hoạt động của các doanh nghiệp
và mọi tổ chức cá nhân có liên quan trực ti
ếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Giá trị gia tăng là nguồn gốc của sự tăng của cải và mức sống của toàn xã hội; tạo ra nguồn thu
nhập cho tất cả các đối tượng có tham gia đóng góp vào hoạt động của doanh nghiệp như những
người lao động, chủ sở hữu, cán bộ quản lý và là nguồn tái đầu tư sản xuất mở rộng, đảm bảo cho
sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
1.2.2 Mục tiêu của quản trị sản xuất
Sản xuất là một trong những chức năng chính của doanh nghiệp, cho nên quản trị sản xuất
bị chi phối bởi mục đích của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh mục đích là lợi
nhuận, đối với doanh nghiệp công ích mục đích là phục vụ.
Quản trị sản xuất với tư cách là tổ chức quản lý sử dụng các yếu tố đầu vào và cung cấp đầ
u
ra phục vụ nhu cầu của thị trường, mục tiêu tổng quát đặt ra là đảm bảo thoả mãn tối đa nhu cầu
của khách hàng trên cơ sở sử dụng hiệu quả nhất các yếu tố sản xuất. Nhằm thực hiện mục tiêu
này, quản trị sản xuất có các mục tiêu cụ thể sau:
- Bảo đảm chất lượng sản phẩm và dịch vụ theo đúng yêu cầu c
ủa khách hàng;
- Giảm chi phí sản xuất tới mức thấp nhất để tạo ra một đơn vị đầu ra;
- Rút ngắn thời gian sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ;
- Xây dựng hệ thống sản xuất của doanh nghiệp có độ linh hoạt cao;
Chương 1: Khái quát về quản trị sản xuất

13
Cần chú ý rằng các mục tiêu trên thường mâu thuẫn với nhau. Vấn đề đặt ra là phải biết xác
định thứ tự ưu tiên của các mục tiêu tạo ra thế cân bằng động, đó là sự cân bằng tối ưu giữa chất
lượng, tính linh hoạt của sản xuất, tốc độ cung cấp và hiệu quả phù hợp với hoàn cảnh môi trường
trong từng thời kỳ cụ thể để tạo ra s
ức mạnh tổng hợp, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường.
1.2.3 Vai trò và mối quan hệ của quản trị sản xuất với các chức năng quản trị chính khác
Doanh nghiệp là một hệ thống thống nhất bao gồm ba phân hệ cơ bản là quản trị tài chính,
quản trị sản xuất và quản trị Marketing. Trong các hoạt động trên, sản xuất được coi là khâu quyết
định tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ, và giá trị gia tăng. Chỉ có hoạt động sản xuất hay dịch vụ mới
là nguồn gốc của mọi sản phẩm và dịch vụ
được tạo ra trong doanh nghiệp. Sự phát triển sản xuất
là cơ sở làm tăng giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế cho nền kinh tế quốc dân
tạo cơ sở vật chất thúc đẩy xã hội phát triển. Quá trình sản xuất được quản lý tốt góp phần tiết
kiệm được các nguồn lực cần thiết trong sản xuất, giảm giá thành, tăng năng suất và hiệu quả của
doanh nghiệp nói chung. Chất lượng sản phẩm hay dịch vụ do khâu sản xuất hay cung ứng dịch
vụ tạo ra. Hoàn thiện quản trị sản xuất tạo tiềm năng to lớn cho việc nâng cao năng suất, chất
lượng và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đánh giá vai trò quyết định của quản trị sản xuất trong việc tạo ra và cung cấp
sản phẩm, dịch vụ cho xã hội không có ngh
ĩa là xem xét nó một cách biệt lập tách rời các chức
năng khác trong doanh nghiệp. Các chức năng quản trị được hình thành nhằm thực hiện những
mục tiêu nhất định và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Quản trị sản xuất có mối quan hệ ràng buộc
hữu cơ với các chức năng chính như quản trị tài chính, quản trị marketing và với các chức năng hỗ
trợ khác trong doanh nghiệp. Mối quan hệ
này vừa thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
nhau cùng phát triển, lại vừa mâu thuẫn nhau.
Sự thống nhất, phối hợp cùng phát triển dựa trên cơ sở chung là thực hiện mục tiêu tổng quát
của doanh nghiệp. Các phân hệ trong hệ thống doanh nghiệp được hình thành và tổ chức các hoạt
động sao cho đảm bảo thực hiện tốt nhất mục tiêu tổng quát của toàn hệ thố
ng đã đề ra. Marketing
cung cấp thông tin về thị trường cho hoạch định sản xuất và tác nghiệp, tạo điều kiện đáp ứng tốt
nhất nhu cầu trên thị trường với chi phí thấp nhất. Ngược lại sản xuất là cơ sở duy nhất tạo ra hàng
hoá, dịch vụ cung cấp cho chức năng Marketing. Sự phối hợp giữa quản trị sản xuất và marketing sẽ
tạo ra hi
ệu quả cao trong quá trình hoạt động, giảm lãng phí về nguồn lực và thời gian.
Chức năng tài chính đầu tư đảm bảo đầy đủ, kịp thời tài chính cần thiết cho hoạt động sản
xuất và tác nghiệp; phân tích đánh giá phương án đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ
mới; cung cấp các số liệu về chi phí cho hoạt động tác nghiệp. Kết quả của quản trị sản xuất t
ạo
ra, làm tăng nguồn và đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp đề ra.
Tuy nhiên, giữa các phân hệ trên có những mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn, chức năng sản
xuất và marketing có những mục tiêu mâu thuẫn với nhau về thời gian, về chất lượng, về giá cả.
Trong khi các cán bộ marketing đòi hỏi sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ và thời gian giao
hàng nhanh thì quá trình sản xuất lại có những giới hạn v
ề công nghệ, chu kỳ sản xuất, khả năng
tiết kiệm chi phí nhất định. Cũng do những giới hạn trên mà không phải lúc nào sản xuất cũng
đảm bảo thực hiện đúng những chỉ tiêu tài chính đặt ra và ngược lại nhiều khi những nhu cầu về

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét