- Bản tính ông cần cù chịu khó làm nghề hơn 10 năm, thuộc sông như thuộc lòng bàn tay,
ông say mê nghề nghiệp, "chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái
cuống lái tưởng tượng”.
b. Người lái đò sông Đà thực sự là người chiến sĩ trên mặt trận sông nước.
- Chiến trường ở đây không tiếng súng, không có kẻ thù cụ thể, chỉ có sóng, gió, đá ngầm
nhưng đó là một kẻ thù đáng sợ.
- Ông lái tỏ rõ là một chiến sĩ lão luyện đầy kinh nghiệm, kiểu kẻ thù. "Trên dòng sông Đà,
ông xuôi ngược hơn một trăm lần nhớ tỉ mỉ như đinh đóng vào lòng tất cả những luồng
nước của tất cả các con thác hiểm trở”. "Sông Đà như một thiên anh hùng ca mà ông thuộc
đến cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng!"
Ông lái còn là một chiến sĩ kiên cường, dũng cảm. Sức nước mạnh mẽ của sông Đà ngầm
chứa trong nó bao nguy hiểm cho con người "cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.
Thuyền bè không cẩn thận, bị nó hút xuống mất tăm". Thạch trận hiểm trở: đá ở đây từ
ngàn năm mai phục lòng sông, có thuyền nào qua là nhổm dậy vồ lấy thuyền, đánh cho tan
xác.
- Ông lái điều khiển con thuyền vượt qua thạch trận với nhiều cửa sinh cửa tử. Ông chiến
đấu hàng trăm trận với nó, không chút sợ hãi, "cứ như không", ngoài lòng dũng cảm, người
chiến sĩ vượt thác còn cần phải mưu trí, biết dùng "binh pháp".
c. Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân còn là người nghệ sĩ tài hoa.
- Dòng sông Đà hung dữ luôn tạo ra những bất ngờ cho con người, mỗi lần vượt sông là
một lần sáng tạo để đối phó với mối nguy hiểm mới. Ông lái phải chuyện cho "tay lái ra
hoa" (chữ của Nguyễn Tuân).
- Cuộc vượt thác trở thành cuộc biểu diễn nghệ thuật hoàn hảo, chính xác đẹp mắt trong
từng cử chỉ, động tác.
- Ông lái đò biểu diễn cuộc vượt "thạch trận" bằng phong thái tự tin bình tĩnh, "ngày nào
cũng giành lấy cái sống từ những cái thác nên không còn gì là hồi hộp đáng nhớ", xong
một cái là "sóng nước xèo xèo tan trong trí nhớ".
d. Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là con người vô danh, chẳng ai biết đến, nhưng
ông thực sự đáng tôn vinh, vì có những phẩm chất của con người chân chính. Có chút gì
giống nhau giữa nhân vật của Nguyễn Tuân với ông già đánh cá trong "Ông già và biển cả"
của Hêminguây.
3. Kết bài:
Vẻ đẹp của con người lao động, con người vô danh được coi là khám phá của Nguyễn
Tuân khi viết về cuộc sống mới, con người mới. Cảm hứng vô tận của văn chương chính là
con người và cuộc đời đang hiện hữu quanh ta.
Tác giả
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đình nhà nho ở Hà
Nội. Tác phẩm tiêu biểu nhất: “Vang bóng một thời” (1933), “Sông Đà”
(1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, độc đáo và uyên bác.
Cái đẹp, cái thiên lương trong cuộc đời được ông nói đến với tâm hồn nghệ
sĩ đích thực, với cái nhìn phát hiện và đầy sáng tạo. Văn của ông, chữ nghĩa
của ông giàu có, tài hoa. Chuyện xưa và nay, chuyện trên rừng dưới biển,
chuyện làm ăn, thú ăn chơi tao nhã… đến đặc sản, thổ ngơi, chuyện người,
chuyện cây cỏ… từ rượu đến hoa, từ giò chả đến phở… được ông nói đến
thật hay. Người đọc cảm thấy tâm hồn mình giàu có thêm lên qua từng trang
văn độc đáo của ông, để yêu hơn, tự hào hơn đất nước, con người và nền văn
hoá Việt Nam.
Ca ngợi sông Đ , núi rà ừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng b o à
Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất t i tà ử, t i hoa.à
Nội dung
1. Con sông Đà hùng vĩ, dài trên năm trăm cây số, hiểm trở với hàng
trăm thác ghềnh mang những cái tên cổ sơ, xa lạ (Hát Loóng, thác Giăng,
Hót Gió, Mó Tôm…). Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè…!”. Âm thanh tiếng thác nghe ghê rợn
như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu,
tre nứa bị cháy. Sông Đà có nhiều thạch trận, nhiều cửa tử ít cửa sinh, với
những thần sông, thần đá trấn giữ “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”, đánh hồi
lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chổ hiểm chực “đòi ăn chết cái
thuyền”. Luồng nước vô sở bất chí, dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh
trên sông đầy thác ghềnh, thạch trận. Những ông tướng đá mặt xanh lè đáng
sợ.
Nhịp điệu câu văn dồn dập. Từ tượng thanh, từ tượng hình, những ẩn dụ so
sánh, tiếng nói đời thường sông nước, ngôn từ nhà bình, thể thao thể dục,
điện ảnh… được ông vận dụng để miêu tả thác ghềnh, gây ấn tượng về sự dữ
dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà.
Sông Đà còn mang vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng “tuôn dài tuôn dài như một
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo tháng hai”. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích. Mùa thu nước
sông Đà lừ lừ chín đỏ”. Nguyễn Tuân gọi sông Đà là một cố nhân. Cảnh ven
sông ở thượng nguồn lặng tờ. Có bầy hươu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương.
Cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Có đoạn, có
khúc sông: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử - Bờ sông hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”.
Một về cố thi, một câu đồng dao, một câu thơ Đường, một vài câu thơ của
Tản Đà của Nguyễn Quang Bích được Nguyễn Tuân lựa chọn đưa vào, cho
thấy ông là một cây bút rất sành điệu, tài hoa dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh
vẻ đẹp sông Đà với tình yêu sông núi, giang sơn.
2. Người lái đò sông Đà
- Làm ăn giỏi, hơn 10 năm cùng con thuyền xuôi ngược sông Đà. Thông thuộc thác
ghềnh, thuộc địa hình dòng sông như thuộc bàn tay mình.
- Chiến thắng thần sông, thần đá, chinh phục mọi cửa tử cửa sinh. Dũng cảm và tài ba
đưa con thuyền “vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép”, như một mũi tên tre xuyên nhanh
qua hơi nước”… làm cho tên tướng đá “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng…”. Có lúc bị
luồng nước đánh đòn ác hiểm. “hột sinh dục vụt muốn thọt lên cổ”, nhưng ông vẫn bình
tĩnh, tỉnh táo điều khiển con thuyền thoát hiểm.
- Rất tài tử. Sau một ngày dài đọ trí thi tài với thần sông thần đá, ông ung dung đốt lửa
trong hang đá, nước ống cơm lam, nói về cá anh vũ, những hầm cá hang cá mùa khô nổ
những tiếng to như mình bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Lúc ngừng chéo, ông chẳng
hề bận tâm về chuyện vượt thác, chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ, quân
tợn vừa rồi.
- Một chân dung tuyệt đẹp: Tuổi đã 70 mà cánh tay còn “trẻ tráng”, tóc bạc, cái đầu quắc
thước, thân hình cao to, “gọn quánh như chất sừng, chất mun”. Tiếng nói âm vang át cả
sóng nước. Ngực, vai có những vết chai như những củ nâu mà Nguyễn Tuân gọi đó là thứ
“huân chương lao động siêu hạng”, với thái độ cảm phục ngợi ca.
Kết luận
Người lái đò sông Đà thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa tài tử, uyên bác, độc đáo
trong thể tuỳ bút của Nguyễn Tuân – con sông Đà là hình hài của Tổ quốc thân yêu. Người
lái đò là hình ảnh con người Tây Bắc rất dũng cảm, cần cù và tài ba. Ông đã đem tình yêu
sông núi, tự hào về nhân dân để viết nên một trang hoa, tờ hoa đích thực. Đọc Nguyễn
Tuân mà ta nhớ Tản Đà:
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
.Mở bài
Trước khi Sông Đà trở thành dòng sông ánh sáng, nguồn cảm hứng cho
thơ, nhạc, hoạ… thì con sông ấy đã tuôn chảy trên nhiều trang văn của
Nguyễn Tuân. Tài năng, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễt Tuân đã
biến dòng sông ấy trở nên hấp dẫn, gợi cảm cho người đọc.
II. Thân bài :
1. Lai lịch sông Đà
Nguyễn Tuân là người rất mực tài hoa. Nhà văn đòi hỏi mỗi trang viết
phải thật sự nghệ thuật và độc đáo. Đến với sông Đà, dường như ngòi bút
Nguyễn Tuân đã gặp được điều tâm đắc, mảnh đất tốt để ngòi bút của ông
tung hoành bời con sông đó mang một cá tính độc đáo :
Chúng thuỷ giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
(Mọi con sông đều chảy theo hướng đông,
Chỉ có sông Đà theo hướng Bắc)
(Nguyễn Quang Bích)
Sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân trở nên một nhân vật có diện mạo,
có tâm địa vừa hung bạo, vừa hết sức trữ tình.
2. Hình tượng con sông hung bạo
- Khi hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một sẵn sàng cướp đi mạng sống
con người, có tâm địa độc ác như người dì ghẻ. Để khắc hoạ tính cách của
sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm :
+ Đó là đoạn cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành: chẹt lòng sông Đà
như một cái yết hầu. Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá
xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào
cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. Lại
một đoạn sông khác, sông Đà là cái hút nước xoáy tít. Có những thuyền đã
bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi dến mười
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
+ Nhưng dữ dội nhất là ở những thác đá. Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ
dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm
ngàn âm thanh. Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe doạ bởi tiếng thác
nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích,
giọng nghe gằn mà chế nhạo. Tác giả đã dựng lại cuộc thuỷ chiến giữa sông
Đà và người lái đò để lột tả cho được tính hung bạo của nó và tài nghệ của
người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến mà nhà văn gọi là thạch
trận, nhằm ăn chết cái thuyền đơn độc. Ở tuyến một, thác đá mở ra năm cửa
trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Ở tuyến hai,
tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên
phía hữu ngạn. Ở tuyến ba, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống
nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng luồng sinh để vượt qua.
- Một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là không
thích sự bằng phẳng, nhợt nhạt. Bởi thế, khi khắc hoạ sông Đà hung bạo,
Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để dường như thi tài với tạo hoá. Ông
dùng những câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh
nối tiếp nhau, dồn dập : Mặt trước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ
gãy cán chèo võ khí trước cánh tay mình. Nhà văn sử dụng lối nói ví von, ẩn
dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị. Ông tả những hòn
đá trông nghiêng thì y như là đang hất hảm hỏi cái thuyền phải xưng tên
tuổi, một hòn đá khác thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào.
- Nhưng cũng chính trên những trang văn tả sông Đà hung bạo, người đọc
bắt gặp nhiều tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp. Có thể nghe
thấy trong đoạn văn ấy âm hưởng của những khúc ca ca ngợi sức mạnh tự
nhiên thật hoang dại mà cũng hết sức tự do, hào phóng.
3. Hình tượng con sông trữ tình
Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà
lại rất trữ tình, gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Khi trữ tình, sông
Đà hiền hoà, mềm mại, huyền ảo như mái tóc của một phụ nữ kiều diễm :
con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mây mù
khói núi Mèo nương xuân.
- Không chỉ đẹp ở hình dáng, sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, mà tác giả
đã bao lần dày công quan sát mới nói hết được vẻ độc đáo ấy: Mùa xuân
dòng sông xanh ngọc bích (nghĩa là một màu xanh trong và sáng); mùa thu
nước sông Đà lừ lừ chín đổ như mặt người bâm đi vì rượu bữa
- Đặc biệt là không khí hoang dại, tĩnh lặng : Bờ sông hoang dại như bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đề lột tả
không khí đầy thơ ấy. Nguyễn Tuân đã tả đàn hươu ngẩng đầu ngơ ngác mơ
một tiếng còi sương, và cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há
Dương Châu, gợi tâm sự của người tình nhân chưa quen biết !
- Lúc này, không thấy đâu con sông Đà diện mạo và tâm địa độc ác, mà
chỉ thấy tình cảm của dòng sông đối với con người như một cố nhân, xa thì
thấy nhớ thương, gặp lại thì thấy mừng vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.
Còn con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ những hòn đá xa
xôi để lại nơi thượng nguồn.
- Khi tả con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn
nhẹ nhàng, êm ái. Câu ngắn, vị ngữ diến tả trạng thái bình lặng, để lại trong
lòng người âm hưởng mênh mang, thơ mộng.
III. Kết luận :
Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện
lên thật sinh động với hai tính cách hung bạo và trữ tình. Ẩn đằng sau những
câu chữ là niềm tự hào của nhà văn về đất nước giàu đẹp. Đây cũng là cách
tôn vinh con người, vì chính ở nơi đầu sóng ngọn gió ác liệt ấy, con người
đã chinh phục và chế ngự thiên nhiên để ngày nay sông Đà trở thành nguồn
tài nguyên cho Tổ quốc.
I. Mở bài
Trong tác phẩm Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ con
sông Đà thơ mộng đầy sức sống, vừa dữ dội, mãnh liệt, vừa trữ tình, thơ
mộng. Và, trên dòng sông ấy, hiện lên sừng sững người lái đò hiên ngang,
vững chãi, tự do và đẹp như một huyền thoại. Hình tượng người lái đò đã
mang đậm phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân, nhà văn luôn
say mê cái đẹp và suốt đời đi tìm cái đẹp
II. Thân bài
1. Lai lịch và ngoại hình người lái đò sông Đà
Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc
mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm. Nhưng mười năm người
lái đò đã in dấu ấn khá đậm ở ngoại hình ông lão : Tay ông lêu nghêu như
cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một
cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó
trong sương mù.Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới
thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề
ở chính người đó. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều
điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng
hiển ngôn
2. Tính cách người lái đò sông Đà
- Sự từng trải
Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là
người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết :
người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm
nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm
lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần… Sự từng trải của người lái đò
còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắ
mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các
con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một
trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than
chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn
nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian
ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải,
gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn
bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ
những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà
- Lòng dũng cảm :
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi
hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán
nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà
ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng
chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của
người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt
trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra
nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo
và tâm địa của kẻ thù số một :
… Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời.
Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có
chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ
lấy thuyền. Mặt hòn đat nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn
nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi
hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia
làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền
đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận
địa sẵn…
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn
hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật
ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không
hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt
qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương,
hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh
hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi
thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã
nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”:
Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá
cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được
lượn được. Thế là kết thúc.
- Nghệ sĩ tài hoa :
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một
nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân
có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những
người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ
sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người
lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ
sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc
các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quyluật khắc nghiệt. Một chút
thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng
mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại
chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng
thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò
vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa
nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật
khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông
lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc
nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo
tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong
hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về
những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi
túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến
thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ
chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy
ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời
nhận xét : Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội,
ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không
có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người
lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò
chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm !
III. Kết luận :
Nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhân vật
chính diện luôn được nhà văn chú ý mô tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
Nếu như trước cách mạng tháng Tám 1945, theo Nguyễn Tuân, cái tài hoa
chỉ có ở lớp nhà nho trong quá khứ thì nay, trong Người lái đò sông Đà và
nhiều tác phẩm khác, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong
cuộc sống hàng ngày của người dân lao động, trong hiện tại của đất nước.
Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác
hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật
tuyệt vời.
Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ
thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà
văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.
Phân tích những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân thể hiện trong bài kí Người lái đò sông Đà.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tài
năng và phong cách thật độc đáo, hiếm có. Nguyễn Tuân sở trường nhất là ở
thể tùy bút, bút kí. Trong thể văn này, ngòi bút Nguyễn Tuân như được tung
hoành phóng túng và bộc lộ đầy đủ tài hoa và sự uyên bác cũng như cái
“ngông” của mình, tức là in đậm nét phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Nguyễn Tuân là người có ý thức sâu sắc về bản ngã. Văn ông in đậm
chất tài hoa tài tử của con người ông. Nguyễn Tuân cũng được xem là nhà
văn của giang hồ xê dịch, ông thường viết về những chuyến đi, về sông nước
tàu xe, đường sá và những kẻ có máu giang hồ. Đối với Nguyễn Tuân, xê
dịch là một nhu cầu, đó cũng là một cách “thay thực đơn cho giác quan”.
Nguyễn Tuân không chấp nhận những cái tầm thường, nhạt nhẽo, nhàm
chán. Trong văn ông, mọi cái đều khác thường: từ chuyện uống trà đến
chuyện ngắm hoa, rồi chuyện người tử tù, tài hoa, tinh tế… Nguyễn Tuân
thường nhìn người và cảnh dưới con mắt thẩm mĩ, đồng thời tác phẩm của
ông cũng bộc lộ một vốn tri thức uyên bác và sự lịch lãm về nhiều lĩnh vực:
địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật. Nguyễn Tuân là người rất yêu thiên
nhiên, ông say mê phát hiện vẻ đẹp và sự giàu có của cây cỏ, núi sông, rừng
biển của quê hương đất nước mình, và đó cũng là một biểu hiện cụ thể của
tình cảm yêu nước, của tinh thần dân tộc ở Nguyễn Tuân. Đặc biệt, Nguyễn
Tuân hết sức yêu quí, trân trọng tiếng Việt và ông có một kho từ vựng cực kì
phong phú, một lối hành văn thật cầu kì, đa dạng, biến hóa và độc đáo, vừa
cổ kính vừa hiện đại.
Người lái đò sông Đà là một bài trong tập tùy bút Sông Đà – tác
phẩm đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng tháng Tám.
Qua bài kí này có thể thấy những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân.
Chuyến thâm nhập “thực tế” Tây Bắc năm 1958 đã tạo điều kiện cho
Nguyễn Tuân được sống với những gì thân thuộc và hào hứng nhất của
người nghệ sĩ ở trong ông. Nguyễn Tuân đã thấy và cảm nhận được mọi vẻ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét