từng giai đoạn, từng thời kỳ. Nhng nói chung các hoạt động này diễn ra một
cách tự phát.
+ Thực tế trong Nhà nớc phong kiến đã can thiệp và đã thu đợc những
thành công và cũng có những thất bại. Trong đó sự can thiệp sớm nhất xuất
hiện vào triều đạI Lý thế kỷ X trớc công nguyên. Nhà lý hình thành các thái
ấp và chịu kiểm soát của triều đình. Tuy nhiên mặc dù Nhà nớc phong kiến
đã có ý kiểm soát hoạt động của các thái ấp nhng vẫn không kiểm soát nổi
tình trạng bóc lột, hà khắc với nhân dân. Chính vì vậy trong nhiều thập kỷ
của Nhà nớc phong kiến Việt Nam tiếp tục ban hành các chính sách nhằm
kiểm soát, duy trì và củng cố quyền lực của Nhà nớc trung ơng.
- Năm 1397 Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn điều & hạn nô
- Năm 1429 sau cuộc chiến tranh dành độc lập thắng lợi Nhà Lê đã
ban hành chế độ quan điều.
ở các nớc khác trong giai đoạn này cũng tơng tự, song các nớc phơng
Đông sớm nhận thức về vai trò của Nhà nớc trong nền kinh tế hơn các nớc
phơng Tây.
ở Trung Quốc từ học thuyết bình dân kinh tế chủ nghĩa Mạnh Tử
cho rằng chính sách kinh tế của Nhà nớc phải làm cho dân giàu và chỉ có
dân giàu thì nớc mới mạnh.
Song dù có tiến bộ và cải cách hơn chế độ chủ nô, với sự phát triển của
chế độ xã hội nên chế độ phong kiến (Nhà nớc phong kiến) vẫn phải sụp đổ
để thay vào đó một Nhà nớc tiến bộ hơn. Đó là Nhà nớc TBCN.
ở Nhà nớc TBCN. Nền kinh tế mới ra đời các quan hệ sản xuất cũng
đợc đổi mới. Nhằm nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế phát triển. Nhà n-
ớc t bản nhanh chóng có nhứng chính sách giúp đỡ các nhà kinh doanh, tạo
ra sự tích luỹ t bản.
Trong giai đoạn đầu của CNTB. Nhà nớc đã ban hành và xây dựng các
bộ luật nhằm tạo ra sự tích luỹ cao nhất và giúp các doanh nghiệp trong nớc
khỏi sự chèn ép của các tập đoàn doanh nghiệp nớc ngoài. Nhng khi kinh tế
TBCN phát triển Nhà nớc chỉ đóng vai trò là ngời giám sát và tạo ra các cơ sở
tiền đề cho sự phát triển kinh tế.
Qua các thời kỳ lịch sử cho thất rõ hơn khi mà lực lợng sản xuất trong
chế độ đó phát triển ở một mức độ nào đó, nó sẽ kéo theo mối quan hệ sản
5
xuất đó cũng dần thay đổi để phù hợp và khi quan hệ sản xuất ngày càng đợc
nâng cao và mở rộng thì nó đòi hỏi phải có một thể chế mới nhằm đáp ứng
nhu cầu cho các mối quan hệ sản xuất phát triển. Cho nên ròng lịch sử đã
chứng minh cho chúng ta rất rõ. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, khi mức quan
hệ sản xuất phát triển tức họ đã đòi các quyền về sự phân phối sản phẩm cần
phải có quan hệ tổ chức về quản lý và quyền sở hữu đối với t liệu sản xuất.
Song thể chế lúc bấy giờ chỉ coi tầng lớp lao động (nô lệ) chỉ là những công
cụ sản xuất. Và quan hệ cũng nh các chính sách của Nhà nớc không đáp ứng
đợc nhu cầu sản xuất. Cho nên nh một tất yếu khách quan các quan hệ sản
xuất đã đấu tranh và thay đổi một kiểu Nhà nớc mới. Sang thơi kỳ phong
kiến. Thời kỳ này cũng tơng tự nh vậy, tuy đã đợc cải cách nhiều song còn
lạc hậu với các quan hệ sản xuất ngày cành phát triển và cũng nh quá trình
chuyển biến từ nền kinh tế chiếm hữu nô lệ sang nền kinh tế TBCN. Với
khoa học công nghệ phát triển, nó đã cải tiến đợc nhiều quan hệ tổ chức và
quản lý sản xuất Nhng quan hệ phân phối sản phẩm vẫn cha đợc giải quyết
một cách đúng đắn. Trong thời kỳ kinh tế TBCN phát triển, Nhà nớc t bản đã
khôn khéo che đậy mối quan hệ này bằng cách tạo ra các chính sách nh trợ
cấp nhằm che dấu bản chất của mối quan hệ sản xuất. Nhà nớc CNTB đã
đặt ra chế độ thuế khoá- một chế độ đóng góp có tính cỡng bức để nuôi sống
bộ máy cai trị, thực hiện chức năng đối nội, điều hoà giai cấp điều hoà sự
sung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự nhằm phục vụ
lợi ích của giai cấp thống trị, lợi ích phần lớn tập trung vào tay một số ít ngời
(Giai cấp thống trị) trong xã hội. Nền kinh tế đó sớm muộn cũng bị thay đổi,
nhằm giải quyết triệt để vấn đề cơ sở hạ tầng. Và để giải quyết vấn đề về mối
quan hệ Nhà nớc và kinh tế đó một Nhà nớc mới ra đời. Nhà nớc XHCN.
+ Nhà nớc XHCN.
Bên cạnh những mặt tiêu cực của Nhà nớc TBCN, Nhà nớc XHCN đã
biết kế thừa những mặt tích cực cũng nh những thành tựu của Nhà nớc TBCN
nhằm giải quyết tốt hơn vai trò của Nhà nớc về kinh tế. Một trong những Nhà
nớc đó là Nhà nớc ta đã đang vận dụng nhằm xây dựng con đờng mình đã
chọn.
II. Vận dụng nền kinh tế thị tr ờng và những cơ sở lý luận vào n ớc
ta.
1. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần có sự
quản lý của Nhà nớc ta.
6
Trớc đây chúng ta muốn tiến lên XHCN nên đã đa nền kinh tế tập
trung vào nớc ta. Trong quá trình xây dựng đất nớc chúng ta gặp không ít
những khó khăn. Trong các cuộc chiến tranh chúng ta đã xây dựng nền kinh
tế tập trung đã giải quyết đợc một số vấn đề về kinh tế xã hội quan trọng nhất
là việc huy động đợc nhân tài vật lực phục vụ cho chiến tranh chống Mỹ cứu
nớc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nớc. Chính vì điều đó mà chúng ta
đã ngộ nhận rằng: Nền kinh tế kế hoạch đó sẽ đa nớc ta tiến nhanh lên
CNXH.
Cho nên sau khi hoà bình chúng ta vẫn áp dụng nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung để xây dựng đất nớc. Nhng trong quá trình xây dựng mô hình
này thì nó đã dần bộc lộ những nhợc điểm cơ bản là nó thiếu động lực cho sự
phát triển. Điều này nó thể hiện những mặt hạn chế sau:
nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung không gắn chặt giữa
ngời lao động và t liệu sản xuất và sản phẩm của họ làm ra. Việc sản xuất tốt
hay xấu không liên quan gì đến quyền lợi của ngời lao động, chính vì thế mà
ngời lao động không quan tâm đến sản xuất, xã hội trở nên thiếu động lực.
Vì sản xuất và tiêu thụ theo mệnh lệnh nên ngời lao động và các cơ sở
sản xuất kinh doanh không cần thiết phải nghiên cứu ứng dụng các thành tựu
mới. Bởi vật cơ sở vật chất kỹ thuật của nên kinh tế vốn đã lạc hậu lại càng
lạc hậu hơn.
Cũng vì làm theo kế hoạch và mệnh lệnh nên ngời lao động và cơ sở
kinh doanh trở nên thụ động, tính sáng tạo của họ ngày càng bị thui chột. Sở
dĩ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung có nhiều tiêu cực là do chính cơ chế
quản lý của nó.
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quản lý nền kinh tế bằng mệnh
lệnh hành chính là chủ yếu điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá quá đáng. Các
cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhng lại không chịu trách nhiệm gì về
các quyết định của mình. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu coi thờng
quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả quản lý kinh tế.
Những hậu quả của nền kinh tế này mang lại là: kinh tế đất nớc luôn
trong tình trạng suống dốc, lạm phát gia tăng, làm nảy sinh sự trì trệ cuộc
sống nhân dân ngày càng khổ cực.
7
Nhng sau sự đổ vỡ của Liên Xô, chúng ta không thể cứ tiếp tục xây
dựng nền kinh tế của nớc ta theo mô hình này. Vấn đề đợc đặt ra là phải đổi
mới sâu sắc cơ chế quản lý cũ (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp). Theo h-
ớng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã đợc Đại hội VI của Đảng xác
định và tiếp tục đợc Đại hội VII của Đảng khẳng định tiếp tục xoá bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành động lực và vận hành có hiệu quả
của cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
Nền kinh tế thị trờng là một nền kinh tế có nhiều u điểm. Đó là một
nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trờng quyết định.
Cơ chế của nó hết sức linh hoạt, nó tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dới sự
tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó quyết
định những vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Thật khoa học có thể đánh giá đầy
đủ đợc u và nhựơc điểm vủa cơ chế thị trờng. Tuy nhiên có thể nêu một số u
điểm cơ bản của cơ chế đó:
- Cơ chế thị trờng có thể kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế,
tạo điều kiện cho hoạt động tự do của họ. Nhờ đó mà động viên đợc các lực l-
ợng xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy ứng dụng kỹ
thuật mới vào sản xuất phát triển nền kinh tế hàng hoá.
- Nhờ thị trờng có thể thoả mãn nhu cầu về hàng ngàn vạn loại sản
phẩm khác nhau cho tiêu dùng cá nhân và cho sản xuất.
- Thị trờng linh hoạt hơn, có kế hoạch hoá tập trungả năng thích nghi
cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời khối l-
ợng và cơ cấu của sản xuất với khối lợng và cơ cấu của nhu cầu.
Nhờ vậy cơ chế thị trờng giải quyết đợc những vấn đề cơ bản của tổ
chức kinh tế xã hội. Cơ chế thị trờng có khả năng tự điều tiết nền sản xuất xã
hội tức là khả năng phân bổ của các ngành kinh tế mà không cần điều khiển
của trung tâm nào.
Cơ chế thị trờng tự động điều chỉnh và kích thích sự phát triển sản
xuất, tăng trởng kinh tế tạo ra ở cả chiều rộng và chiều sâu. Tăng cờng
chuyên môn hoá sản xuất.
Qua đó chúng ta thấy tính năng hoạt động cũng nh hiệu quả của nền
kinh tế thị trờng so với kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Chúng ta xây dựng
XHCN nên việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật là một yếu tố quan trọng. Cho
8
nên một số năm trở lại đây chúng ta đang xây dựng một mô hình kinh tế mới
đó là nền kinh tế nhiều thành phần theo định hớng XHCN.
Thực tế nhằm đa nớc ta thoát khỏi khủng khoảng & trì trệ suốt những
năm bao cấp và cải thiện, nâng cao dần đời sống nhân dân. Và cũng để ứng
dụng tốt công nghệ khoa học tạo ra cơ sở vật chất cho công cuộc đổi mới ở n-
ớc ta.
Và thực chất của công cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc là so mối quan
hệ trong xã hội đòi hỏi Nhà nớc phải có những chính sách cải thiện đặc biệt
là trong kinh tế. Đứng trớc thực trạng đó Nhà nớc không thẻ giữ mãi các mối
quan hệ sản xuất cũ mà cần phải có những chính sách mới phù hợp với những
quan hệ sản xuất đang phát triển. Và nhằm phù hợp với thực trạng của đất n-
ớc và sự phát triển của thế giới.
Chính vì vậy nớc ta đã chọn con đờng mới. Chuyển toàn bộ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
2. Vai trò của Nhà nớc trong quá trình xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần ở nớc ta hiện nay.
2.1. Sự cần thiết tất yếu phải có vài trò của Nhà nớc.
Trong điều kiện hiện nay của đất nớc, khi mà đất nớc đang xoá bỏ dần
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung để xây dựng nền kinh tế mới, nền kinh tế
thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Thì vai trò của Nhà nớc ngày càng lớn
lao hơn.
Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trờng. Mà chúng ta đã biết đây
là một nền kinh tế CNTB mà bản chất của phơng thức sản xuất này là giá trị
thặng d, vì mục đích lợi nhuận tối đa con ngời có thể làm mọi thứ. Mục đích
của sản xuất TBCN làm giàu, là nhân giá trị lên, là làm tăng giá trị, do đó
bảo tồn giá trị trớc kia và tạo ra giá trị thặng d (C.Mac: các học thuyết giá trị
thặng d). sản xuất ra giá trị thặng d (lợi nhuận) là một động lực thúc đẩy con
ngời sản xuất bằng mọi cách nhằm tạo ra lợi nhuận lớn nhất. Mà chúng ta
đang xây dựng đất nớc tiến lên CNXH, nhng muốn vận hành nền kinh tế theo
cơ chế thị trờng để tạo ra cơ sở vật chất tiền đề vững chắc về vật chất, cho
nên cần phải co vai trò Nhà nớc nhằm định hớng tốt tránh sự lệch lạc trên con
đờng tiến lên CNXH.
9
Mặt khác, trong quá trình xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trờng
chúng ta sẽ gặp nhiều hạn chế trong cơ chế này. Cơ chế thị trờng có thể gây
ra nhiều những mất ổn định và thờng xuyên phá vỡ thế cân bằng trong nền
sản xuất xã hội. Cơ chế thị trờng thờng sinh ra các vấn đề nan giải: lạm phát,
thất nghiệp, phân phối sản phẩm cơ chế này hoạt động không có hiệu quả
bởi các tổ chức độc quyền và luôn gây ra sự mất công bằng, nhiều tệ nạn xã
hội cơ chế phân phối sản phẩm đã phân hoá xã hội thành những ngời giàu,
kẻ nghèo và ngày càng sâu sắc hơn.
Trong cơ chế này một số ngành có lợi nhuận thấp sức thu hồi vốn lâu,
một số nhà kinh doanh không sản xuất mặt hàng này. Nhng mặt hàng này lại
rất quan trọng (trong đời sống) đối với xã hội và sự phát triển kinh tế.
Do vậy nhằm đI đúng con đờng đã chọn Nhà nớc và nhân dân ta đã
chọn cần phải có chính sách hợp lý nhằm hạn chế những nhợc điểm của nền
kinh tế mới. Vì vậy cần phải có vai trò quản lý của Nhà nớc trong quá trình
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta.
2.2. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nớc ta.
Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nớc.
Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nớc ta hiện nay là đa đất nớc
thoát khỏi khủng hoảng, ổn định kinh tế xã hội, phấn đấu vợt qua tình trạng
nớc nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân củng cố quốc
phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nớc phát triển nhanh chóng hơn vào
đầu thế kỷ thứ XXI.
Cụ thể đảm bảo cho hiệu quả kinh tế xã hội, đảm bảo sự tăng trởng
nhanh của nền kinh tế gắn liền với sự tiến bộ và công bằng xã hội, làm cho
xã hội ngày càng văn minh đI lên, tạo ngày càng nhiều công ăn việc làm cho
ngời lao động, giảm nhanh tỷ lệ thất nghiệp, tránh những thăng trầm, đột
biến xấu đến khủng hoảng, lạm phát
Nh vậy, để đạt đợc những mục tiêu đó Nhà nớc ta phải có những chức
năng gì?
Các chức năng quản lý kinh tế của Nhà nớc: gồm 4 chức năng sau
a. Định ra khuôn khổ hoạt động cho các tổ chức hoạt động kinh
doanh
10
chức năng này bao gồm vô số các luật lệ, quy tắc buộc các doanh
nghiệp, ngời tiêu dùng và bản thân Chính phủ phải theo. Chẳng hạn nh xác
định môi trờng kinh doanh, các quy tắc hợp đồng
Chức năng này nhằm phân bố tài nguyên, nhân lực sao cho vừa đảm
bảo hiệu quả kinh tế vĩ mô, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vi mô. Tránh tình
trạng thiếu đày đủ các bộ luật, chính sách dẫn đến những quan hệ sai trái,
làm yếu đI các quy luật của thị trờng gây nên sự phồn vinh giả tạo trong đời
sống kinh tế xã hội.
Bởi vậy mà sự hình thành thị trờng văn minh với các quan hệ thị trờng
lành mạnh và sử dụng có hiệu quả của những hoạt động tự phát và phải là kết
quả của toàn bộ hoạt động kinh tế và luật pháp của Nhà nớc.
Samuelson Nhà kinh tế học ngời Mỹ cho rằng một thất bại của thị tr-
ờng dẫn đến sản xuất không hiệu quả và ở đây Chính phủ có thể đóng vài trò
chữa lệnh.
b. Chức năng hiệu quả kinh tế.
Chức năng này thực sự là sự sửa chữa thất bại, những thất bại của thị
trờng dẫn đến sản xuất không hiệu quả hay tiêu dùng lãng phí. Về thất bại
của thị trờng sảy ra trong các trờng hợp sau:
cạnh tranh không hoàn hảo tồn tại nếu nh trên thị trờng cha có đủ số l-
ợng doanh nghiệp hoặc cha đạt đến mức độ cạnh tranh để không một doanh
nghiệp nào gây đợc ảnh hởng đến giá cả hàng hoá. Do vậy để dành lợi thế
trong kinh doanh doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật mới nhất và tìm cách độc
chiếm kỹ thuật, tình trạng này làm cho giá cả cao hơn mức hiệu quả và làm
biến dạng về cầu sản xuất, xuất hiện siêu lợi nhuận có thể dẫn đến độc
quyền, có thể dẫn đến mức khủng hoảng suy thoái, chính vì thế mà Nhà nớc
cần phải đa ra các biện pháp chống độc quyền nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao
hơn.
Thất bại thứ 2 là do tác động bên ngoài của thị trờng làm hoạt động
kinh tế không hiệu quả.
Thất bại thứ 3 là do thuế. Nhà nớc ta có thể đề ra luật thuế những trên
thực tế, các luật này cha đợc thực hiện một cách nghiêm ngặt. Chính vì vậy
hàng năm Nhà nớc làm thất thoát một khoản thuế lớn.
11
Do thất bại trên của thị trờng đòi hỏi Nhà nớc phải can thiệp và phân
phối một cách hợp lý các tài nguyên, nhân lực tiền và của để nhằm đạt hiệu
quả kinh tế cao.
c. Chức năng đảm bảo công bằng xã hội.
Chức năng duy trì công bằng là không thể thiếu đối với Nhà nớc quản
lý nền kinh tế thị trờng. Dù sự can thiệp của Nhà nớc đã làm cho nền kinh tế
hoạt động hoàn hảo có hiệu quả thì cũng cha có nghĩa là nền kinh tế hoàn
toàn lý tởng. Vấn đề hàng hoá đợc sản xuất cho ai, câu trả lời cho những ng-
ời có tiền. (Là ngời có thu nhập từ lao động hoặc từ lãi suất cổ phần hay tiền
tiết kiệm ). Vì vậy thu nhập thờng chênh lệch giữa các thành viên trong xã
hội. Tại điểm cân bằng của thị trờng không có nghĩa là mọi của cải xã hội
phục vụ các thành viên xã hội hoàn toàn. Khâủ phần ăn của một vật nuôi làm
cảnh ở nhà giàu có thể khá hơn của đứa trẻ lang thang. Nh vậy, hệ thống thị
trờng có hiệu quả có thể gây bất bình đẳng, Nhà nớc cần phải can thiệp vào
khâu phân phối thị trờng thông qua việc sử dụng thuế thu nhập. Tuy nhiên sự
công bằng ở mức độ nào để bảo vệ những ngời không may mắn mà vẫn thúc
đẩy con ngời làm việc, tiết kiệm tiêu dùng còn tuỳ thuộc vào truyền thống
dân tộc, hoàn cảnh kinh tế ở mỗi nớc.
d. Chức năng ổn định kinh tế xã hội.
Ngoài chức năng thúc đẩy trạng thái hiệu quả và duy trì công bằng
trong nền kinh tế hỗn hợp, Nhà nớc còn phải đảm nhận chức năng ổn định
kinh tế - xã hội. Trớc khi đạt đến trình độ phát triển cao nền sản xuất bất kỳ
nớc nào cũng phải trải qua chu kỳ phát triển - thịnh vợng - suy thoái. Gắn
liền đó là thời kỳ lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế.
Tuy nhiên, kinh nghiệm nhiều nớc cho thấy khả năng của Nhà nớc
không phải dễ dàng. Khi chống lạm phát thờng dẫn đến thất nghiệp kích
thích nhập khẩu và làm suy thoái sản xuất. Ngợc lại, kích thích đầu t, xuất
khẩu phát triển sản xuất phải chấp nhận lạm phát ở một mức độ nào đó. Tóm
lại, thực hiện chức năng này, Nhà nớc chỉ có khả năng hạn chế ở mức độ của
các thăng trầm kinh tế bằng cách sử dụng chính sách tài chính, chính sách
tiền tệ tác động có lợi đến sản lợng, việc làm, thu nhập và giá cả của nền
kinh tế tạo nên sự phát triển nhịp nhàng năng động, cân đối và đạt hiệu quả
cao.
12
2.3. Đánh giá thực hiện vai trò của Nhà nớc trong quá trình xây
dựng kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
Đại hội VII đã đề ra mục tiêu tổng quát cho những năm tới là vợt qua
khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cờng ổn định
chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội đa nớc ta cơ bản thoát ra khỏi
tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Để đạt đợc mục tiêu trên , về cơ chế kinh tế, Đại hội đã khẳng định:
tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý
kinh tế cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định h-
ớng XHCN là cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Từ thực tiễn vận động của nền kinh tế quá trình đổi mới và và hình
thành cơ chế quản lý ở nớc ta có thể thấy rằng phải hớng vào các lĩnh vực u
tiên: quản lý kinh tế vĩ mô, cơ sở pháp lý tổ chức cho một nền kinh tế thị tr-
ờng. Đổi mới quản lý hành chính của Chính phủ, cải cách quản lý xí nghiệp
và phát triển kinh tế đối ngoại, sử dụng có hiệu quả vay nợ của nớc ngoài và
viện trợ. Đó là một quá trình tìm kiếm & thử nghiệm đầy khó khăn phức tạp,
song chúng ta đã đạt đợc những thành tựu quan trọng bớc đầu và ngày càng
đợc bổ xung, hoàn chỉnh hơn về nội dung và cũng nh biện pháp thực hiện,
nhằm làm cho cơ chế phù hợp với điều kiện cụ thể của nớc ta về kinh tế,
chính trị xã hội cũng nh với tình hình quốc tế hiện nay. Nhằm giải phóng
năng lực sản xuất, tạo ra công ăn việc làm, tạo ra các động lực thúc đẩy các
đơn vị kinh tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển kinh tế hàng hoá
theo hớng đi lên CNXH. Mở rộng kinh tế với nớc ngoài và thiết lập trật tự kỷ
cơng trong mọi hoạt động kinh tế, thực hiện các chơng trình kinh tế lớn, tăng
nhanh sản phẩm xã hội, từng bớc ổn định tình hình kinh tế xã hội, đa đất nớc
tiến lên.
Đi lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông kém phát triển sản xuất nhỏ
và phổ biến mà mang nặng tính tự cung tự cấp, chúng ta phải dồn sức để khắc
phục khó khăn bởi hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài; vừa phải khôi phục
& phát triển nền kinh tế - xã hội, xây dựng từng bớc cơ sở vật chất kỹ thuật;
đồng thời phải xây dựng và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cho thích hợp với
trình độ và điều kiện khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội.
13
Quá trình đó đã diễn ra trong nhiều giai đoạn khác nhau. Sôi động nhất
từ năm 1980 đến nay và mang những đặc điểm sau đây:
Một là: trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài, đất nớc đứng trơc nhiều
khó khăn và mất cân đối nghiêm trọng về các mặt: cơ cấu sản xuất, dân số
thu nhập và phúc lợi, ngoại thơng và nợ nớc ngoài, khoảng cách giữa tiềm
năng và hiện thực; trình độ phát triển kinh tế và năng lực quản lý ngày càng
lớn. Chỉ từ năm 1979 sau khi kết thúc cuộc chiến tranh hai đầu biên giới phía
bắc và tây nam, chúng ta mới có điều kiện từng bớc xây dựng và quản lý nền
kinh tế chủ yếu theo quy luật kinh tế.
Nghị quyết ban chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ 6 (khoá IV) đã kịp
thời đề ra chủ trơng, chính sách về cơ cấu kinh tế và quản lý kinh tế.
Về cơ câú kinh tế, Nghị quyết đặc biệt chú trọng mặt trận nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu, uốn nắn xu hớng nóng vội trong phong trào hợp tác hoá; chủ trơng
sử dụng kinh tế t nhân và cá thể trong các lĩnh vực cần thiết, khuyến khích
mạng mẽ kinh tế gia đình, chủ trơng mở rộng sản xuất và lu thông hàng hoá.
Về cơ chế quản lý. Nghị quyết nghiêm khắc phê phán tình trạng tập
trung, quan liêu bao cấp trì trệ, bảo thủ trong kế hoạch hoá và xây dựng các
chính sách phân phối, lu thông và tăng năng xuất lao động, phát triển sản
xuất nâng cao đời sống nhân dân, xác định chính sách kết hợp lợi ích xã hội
với lợi ích của tập thể và cá nhân. Khuyến khích ngời lao động hăng hái sản
xuất
Những chủ trơng đó đợc đông đảo quần chúng nhân dân, các ngành,
các cấp hởng ứng mạnh mẽ làm cho đời sống kinh tế phát triển mạnh sôi
động hẳn lên, ngay trớc đại hội V của Đảng, chấm dứt thời kỳ sản xuất lu
thông giảm sút trong các năm trớc đó.
Hai là: Đại hội V của Đảng (1982) đánh giá cao và khẳng định nghị
quyết hội nghị ban chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ 6 (khóa IV) và đòi
hỏi: xác lập chế độ quản lý kế hoạch hoá đúng đắn,đổi mới cơ chế quản lý &
kế hoạch hoá hiện hành, xoá bỏ cơ chế quan lý hành chính, quan liêu bao
cấp; kế hoạch hoá phải thấu suốt nguyên tắc hạch toán kinh tế và kinh doanh
XHCN.
Thực hiện tinh thần nghị quyết trên những năm từ 1981 và sau đạI hội
lần thứ V của Đảng, phong trào quần chúng làm kinh tế xuất hiện và bớc đầu
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét