Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

212557

4
Họ ăn mặc giản dị: đàn ơng đóng khố, đàn bà mặc váy (ngày lạnh có thêm
áo chui đầu). Họ sống tập trung ở các làng bản, ở nhà sàn, do tập trung ở ven
đồi, gần suối hoặc ở những dải đất cao ven sơng nên phương tiện đi lại chủ yếu
bằng thuyền .
Người Việt rất thích ca hát, người dân ăn mặc đẹp, vui chơi nhảy múa…
Mọi sinh hoạt đều gắn với điều cầu mong thiết thực của cuộc sống: mong mưa
thuận gió hồ, mơng được mùa, n ổn làm ăn. Họ thờ cúng các thế lực tự nhiên
(thần sơng, thần núi…) và các con vật thiêng (chim, rồng, hổ). Đặc biệt là người
Việt biết thờ cúng tổ tiên và những người anh hùng có cơng với làng bản.
Con người Việt làm nên bản lĩnh người Việt. Do sống ở vùng đấ mà điều
kiện tự nhiên ơ cùng đa dạng và cũng phức tạp cộng với những yếu tố xã hội đã
làm cho con người Việt Nam ln ln phải thích nghi để sống và đi lên. Vì thế
bản lĩnh của người Việt đã được hình thành từ sớm, cũng vì thế khi bước vào
thời kì Bắc thuộc, người Việt đã có một tư tưởng và một ý thức hệ về độc lập
dân tộc với một nền văn hố riêng của q trình thích nghi và phát triển. Bởi lẽ
ấy mà người Việt với bản lĩnh của mình có đủ tự tin để đối chọi lại ách đơ hộ và
đồng hố kéo dài hơn một thiên niên kỷ.

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
5
CHƯƠNG II
Q TRÌNH THỬ THÁCH BẢN LĨNH CỦA NGƯỜI VIỆT
I. CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG VÀ ĐƠ HỘ CỦA PHONG KIẾN
PHƯƠNG BẮC
1. Nước ta rơi vào ách đơ hộ
Nhân lúc nhà Tần suy yếu, một viên quan cũ của nhà Tần là Triệu Đà đã
chiếm cứ ba quận phía Nam (tương ứng với Quảng Đơng, Quảng Tây) lập ra
nước Việt Nam - năm 206 tr.Cn.
Sau khi thành lập nước Việt Nam, Triệu Đà đã nhiều lần đem qn xâm
lược hòng thơn tính Âu Lạc. qn dân Âu Lạc, với vũ khí tốt và thành Cổ Loa
kiên cố, dưới sự chỉ huy của những tướng tài như Cao Lỗ, Nồi Hầu đã nhiều lần
đánh bại qn Triệu. Thấy khơng thể thắng được Âu Lạc, Triệu Đà giả vờ xin
hồ rồi dùng mưu mơ quỷ quyệt kết hợp với tấn cơng qn sự. An Dương
Vương thiếu phòng bị nên đã bị thất bại nhanh chóng (khoảng năm 179 tr.CN).
Theo truyền thuyết thì một mặt Triệu Đà giảng hồ và dùng của cải mua
thuộc q tộc Âu Lạc, mặt khác cho con trai là Trọng Thuỷ sang làm rể Âu Lạc.
Nhiều người đã can ngăn vua đừng gả Mị Châu cho Trọng Thuỷ nhưng An
Dương Vương khơng nghe, lại còn duổi cả trung thần đi (Cao Lỗ). Trọng Thuỷ
vừa ở rể vừa dò la phép chế nỏ của người Âu Lạc cùng với sự bố trí phòng ngự
của thành Cổ Loa. Sau đó, lấy cớ về thăm cha, Trọng Thuỷ đã nói cho Triệu Đà
biết tình hình Âu Lạc, Triệu Đà lập tức cho chế nỏ, rồi bất ngờ đem qn đánh
vào thành Cổ Loa. Khơng giữ được thành An Dương Vương cùng con gái phi
ngựa chạy về phía Nam, đến bờ biển, cùng đường vua chém Mị Châu, rồi nhảy
xuống biển (chuyện Rùa vàng).
Đến năm 111 tr.CN, nhà Hán lên thay nhà Tần đã thơn tính cả Nam Việt,
Âu Lạc từ tay nhà Triệu lại lọt vào tay nhà Hán.
Nước Âu Lạc của người Việt tồn tại khơng lâu-gần 60 năm thì bị thơn
tính. Người Việt đã anh dũng, đứng lên chiến đấu chống lại qn xâm lược, kiên
quyết bảo vệ chủ quyền độc lập của mình song đã thất bại. Xét về ngun nhân
khách quan thì Triệu Đà có lực lượng mạnh hơn hẳn Âu Lạc và lại gian xảo,
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
6
quỷ quyệt, đất nước ta tuy hiểm trở, có thành Cổ Loa kiên cố nhưng yếu hơn,
tiềm lực vật chất khơng bằng được. Từ đây bắt đầu q trình thử thách bản lĩnh
của người Việt đầy khó khăn và gian khổ. Q trình đó kéo dài đến 1200 năm
đơ hộ của các triều đại Bắc quốc: Hán, Đường, khơng diệt mất, chẳng những
khơng diệt mất mà còn tự mình vùng lên lật đổ Bắc quốc, đạt được một chiến
thắng hiếm có ở bất kì nơi nào của thời kỳ cổ đại.
2. Chính sách cai trị của phong kiến phương Bắc
2.1. Chính quyền đơ hộ thiết lập bộ máy cai trị
Sau khi bị thơn tính, đất đai Âu Lạc bị sát nhập vào đất Trung Quốc và
được chia thành quận huyện. Trải qua nhiều thời kì, Âu Lạc đã bị chia đi chia lại
nhiều lần song nhìn chung, mục đích chính của bọn đơ hộ là tổ chức được bộ
máy cai trị để dễ dàng bóc lột và đơ hộ nhân dân ta, ln ln muốn sát nhập đất
nước ta trở thành một quận huyện của chúng.
2.1.1. Thời kì Nhà Triệu và Hán
Nhà Triệu chia Âu Lạc làm hai quận: Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân
(Thanh, Nghệ Tĩnh). Nhà Hán đặt thêm quận Nhật Nam (Từ Đèo Ngang và đến
Quảng Nam, Đà Nẵng). Nhà Hán lại còn nhập ba quận này với 6 quận khác ở
đảo Hải Nam và đất liền Trung Quốc lập thành châu Giao. Đứng đầu châu Giao
là một thứ sử, mỗi quận có một Thái thú coi việc cai trị và một đơ coi việc
qn sự. Ở các huyện (tương đương với bộ thời An Dương Vương), chúng duy
trì phương thức cai trị rất thâm độc “lấy người Di trị người Di”, “dùng người
Việt trị người Việt”, nhằm biến các lạc tướng, q tộc bản địa thành chỗ dựa cho
chính quyền đơ hộ, giữ ngun ngun tắc tổ chức chính trị cũ của Âu Lạc ở
các địa phương để sử dụng nó vào mục đích bóc lột. Như thế vừa đảm bảo được
nguồn cung cấp, vừa ít động chạm đến quyền lợi của q tộc bản địa.
2.1.2 Thời kì từ sau Trưng Vương đến trước Lí Nam Đế
Sau thất bại của Trưng Vương, nước ta lại bị rơi vào ách đơ hộ của các
triều đại phong kiến Trung Quốc. Nhà Hán, Tấn, Ngơ, Trần, Lương thay nhau
làm chủ Trung Quốc và cũng vì thế mà nước ta bị chia đi chia lại, chia ra nhập
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
7
vào nhiều lần. Nhìn chung miền đất Âu Lạc cũ gọi là châu Giao gồm có ba quận
là Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, khoảng 50 huyện.
Đứng đầu Châu vẫn là thứ sử từ Trung Quốc cử sang. Thứ sử có quyền
cắt đặt quan lại, điều động qn lính ở trong Châu. Ở mỗi quận có chức thái thú
và những chức quan khác giúp việc, cũng là người Hán. Bên dưới quận là
huyện. Chế độ lạc tướng cha truyền con nối của người Việt ở cấp huyện bị bãi
bỏ. Thay cho các lạc tướng người Việt là những tên huyện lệnh người Hán.
Huyện Lệnh cho xây thành luỹ và đóng qn ở đây. Chính quyền đơ hộ còn ra
sức sửa sang, làm thêm đường xá nối liền quận lị, huyện lị với Long Biên - nơi
tập trung các cơ quan cai trị và qn lính.
Luật cũ của người Việt bị bãi bỏ, dân ta buộc phải theo Luật Hán. Đây là
một trong những thủ đoạn quan trọng trong việc tổ chức bộ máy cai trị của
phong kiến phương Bắc. Dần dần thiết chặt bộ máy cai trị tồn do người Hán
cai trị, đẩy người Việt xuống lớp đáy, phải lệ thuộc và chịu sự bóc lột.
2.1.3. Thời kỳ nhà Đường
Năm 618, nhà Đường thay nhà Tuỳ thống trị ở Trung Quốc. Đất nước ta
lại rơi vào ách đơ hộ của nhà Đường. Nhà Đường hùng mạnh, kế tiếp bao triều
đại Trung Hoa, có chính sách cai trị rất khơn khéo, xảo quyệt. Thiết lập bộ máy
cai trị rất chặt chẽ và hệ thống.
Nhà Đường đổi Giao Châu thành An Nam đơ hộ phủ (679), chia An Nam
đơ hộ thành 12 châu trong đó: Giao Châu, Phong Châu, Trường Châu (Bắc Bộ);
Ái Châu, Phúc Lộc Châu, Diễn Châu, Hoan Châu (Bắc Trung Bộ). Nhà Đường
sắp đặt bộ máy cai trị từ trên xuống dưới.
Ngồi việc đất nước ta bị chia thành các châu quận huyện thì nhà Đường
còn chú ý tăng cường củng cố bộ máy cai trị của mình.
Dưới huyện là hương và xã. Các hương và xã được chia theo số hộ. Xã
nhỏ có 10 đến 30 hộ. Xã lớn có từ 40 đến 60 hộ. Hương nhỏ có từ 70 - 150 hộ.
Hương lớn có từ 160 - 540 hộ. Đứng đầu phủ là một viên đơ hộ thâu tóm mọi
quyền hành. Đứng đầu mỗi châu là một viên thứ sử. ở huyện có huyện lệnh
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
8
Nhà Đường còn lập ra 41 châu ki-mi (vùng dân tộc ít người, hẻo lánh, chính
quyền khơng trực tiếp cai quản) cho các tù trưởng địa phương cai quản.
Trụ sở của bọn đơ hộ đặt ở Tống Bình (Hà Nội). Đường giao thơng thuỷ
bộ từ Tống Bình đi các địa phương sang Trung Quốc được sửa sang và làm
thêm. Ở Tống Bình, cũng như các châu và huyện quan trọng, bọn đơ hộ xây
thêm thành, đắp thêm luỹ và tăng cường qn đóng giữ: Dưới thời thuộc Đường,
đất nước ta đã trở thành một đơn vị hành chính có tổ chức cai trị thống nhất. Dù
vậy, về mặt hình thức, chúng lại tỏ ra “ràng buộc”, mua chuộc phần nào tầng lớp
trên của xã hội để đối phó với phong trào của nhân dân hòng khuất phục nhân
dân ta.
Nhà Đường trong q trình tiến hành tổ chức bộ máy cai trị đã tiến hành
thêm một bước mới đó là thiết lập bộ máy cai trị đến tận hương, xã nhằm trực
tiếp khống chế xóm làng của người Việt. Nhưng khơng hề đơn giản như chúng
nghĩ, chúng mới chỉ nắm đến châu, huyện chứ chưa bao giờ can thiệp được vào
cơ cấu xóm làng của xã hội nước ta.
Vậy là hơn 1000 năm đơ hộ nước ta, trải qua nhiều triều đại từ Triệu đến
Đường, mặc dù triều đại nào cũng ra sức củng cố chế độ cai trị của mình bằng
cách thiết lập một bộ máy cai trị ngày càng chặt chẽ và có hệ thống hơn, mục
đích chính là để bóc lột nhân dân ta, thống trị lâu dài nước ta. Chúng chỉ thực
hiện được một phần kế hoạch đó mà thơi. Cuối cùng khơng có một triều đại nào
thiết lập được nền đơ hộ của chúng lên các làng xã người Việt, khơng thể khống
chế hồn tồn được tồn bộ lãnh thổ của người Việt.Lại càng khơng thể nào áp
đặt được “sự đơ hộ” lên bản lĩnh vốn có của người Việt, hay làm cho bản lĩnh
của người Việt bị khống chế, bị kìm hãm mà ngày càng phát triển tinh t hơn,
đẹp đẽ hơn.
2.2. Chính sách đồng hố người Việt của bọn đơ hộ
Hòng thơn tinh đát nước ta, duy trì bộ máy cai trị và xố sổ nươc ta trên
bản đồ, bọn phong kiến phương Bắc đã sử dụng nhiều thứ “vũ khí”, trong đó
đồng hố là “vũ khí chủ lực” sau chiến tranh.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
9
Đơng Á là vùng đất có cư dân sớm. Ở trung tâm, trên lưu vực sơng Hồng
Hà, dân tộc Hán sớm lập nghiệp, văn hố của người Hán vì thế mà phát triển
mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn và có một nền văn hố, một trình độ
hiểu biết cao hơn các dân tộc xung quanh. Các dân tộc nhỏ, văn hố thấp hơn bị
người Hán coi là “Nam Man”, “Đơng Di”, “Bắc Địch” và “Tây Nhung”. Có một
số lần Di, Địch, Nhung đã xâm nhập đất Hán nhưng thường nhất là Hán bung ra
đánh chiếm xung quanh. Trong khi đơ hộ, phong kiến Hán để nhiều cơng sức
đồng hố, Hán hố các dân tộc bị trị. Đồng hố là “đặc sắc nổi bật” của phong
kiến Hán, các triều đại sau tiếp tục theo đuổi chính sách này: đồng hố người
Việt chúng ta mà chúng gọi là Nam Man.
Để thực thi chính sách đồng hố, nhằm vĩnh viễn biến các vùng đất mà
chúng thống trị thành vùng đất mới, sát nhập vào Đại Hán, dân chúng ở đây sẽ
sống và sinh hoạt theo lối Hán. Rồi từ đó mà chẳng cần cai trị thì tự nhiên lãnh
thổ của người Việt sẽ là của Trung Quốc. Bắc Quốc nắm được hai ưu thế lớn,
một là dân số đơng, hai là văn hố lớn hơn. Và chính vì lẽ đó mà chính sách Hán
hố diễn ra hết sức bài bản và thâm độc.
Ban đầu, đồng hố đi đơi với việc chiếm lĩnh đất đai và tun truyền đối
với người Việt. Phong kiến đơ hộ phương Bắc ln nhận thức rõ được vai trò
chiến lược của đồng hố nên nhà Hán đã đẩy mạnh chinh sách này- cùng tiến về
một cái chung - ở đây là văn hố Trung Hoa.
Thứ nhất là biện pháp di dân. Vua Hán đầy ải các tội đồ xuống phía Nam,
cùng với một số khá đơng q tộc, địa chủ, sĩ phu Trung Quốc đem theo gia
đình và tộc thuộc di cư xuống giao Châu, dựa vào chính quyền đơ hộ mà sinh cơ
lập nghiệp, xâm lấn ruộng đất, tài sản người Việt trước sau đều dùng lối sống
Hoa cải biến phong hố Việt.
Với biện pháp này, q trình đồng hố diễn ra theo cả hai hướng tự
nguyện và cưỡng bức. Văn hố Hán được du nhập ngày càng phổ biến từ những
phong cách sinh hoạt hằng ngày,
Thứ hai, do người Việt chưa có chữ nên chính quyền đơ hộ mở ra hệ
thống trường học. Họ dạy lễ nghĩa Nho giáo chữ Hán và văn hố Hán, buộc
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
10
người Việt phải tn theo lễ giáo Trung Quốc. Từ những việc như lấy vợ, gả
chồng cho đến việc ăn mặc, thậm chí cả việc tổ chức khai thác nơng nghiệp
cũng đều phải theo truyền thống, tập qn và kĩ thuật Hán.
Nhìn chung, cả hai biện pháp đều có chỗ dựa vững chắc là chính quyền đơ
hộ đã đặt được hệ thống trên đất nước ta. Văn hố Hán vì thế mà có điều kiện
ảnh hưởng mạnh mẽ, xâm nhập vào đời sống cư dân Việt.
2.3. Chính sách dùng bạo lực đàn áp, khủng bố người Việt
Trong ngàn năm thống trị nước ta, nhằm duy trì nền đơ hộ lâu dài để vơ
vét, bóc lột và thực thi đồng hố, các triều đại phong kiến phương Bắc đã duy trì
một luật pháp hà khắc, tàn bạo để đe doạ, răn đe tinh thần, ý chí của người Việt
trong đấu tranh. Các hình phạt “xẻo mũi”, “cắt tai”, “thích chữ vào mặt” những
người chống đối được sử dụng phổ biến.
Chính quyền đơ hộ từ Hán về sau - nhất là Đường đều thẳng tay đàn áp
nhân dân ta, tắm các cuộc khởi nghĩa trong bể máu nhằm “răn đe thực tế” nổi
dậy của người Việt. Sự trỗi dậy của ý thức dân tộc và bản lĩnh của người Việt bị
kìm hãm bằng những vụ tàn sát, bắt bớ trai tráng đem về thiên triều, đặc biệt là
biện pháp “lấy binh uy mà ức hiếp”, chúng xây dựng thành luỹ kiên cố trên
khắp đất nước Âu Lạc cũ với một đội qn đồn trú đơng đảo, vũ khí đầy đủ. Ở
vùng viên cương và các Châu đều có qn đội để kiểm sốt biên giới. Ngay cả
biện pháp dùng búa chú, san phẳng gò đống để làm tổn thương long mạch, làm
đất nước ta khơng thể phát triển.
Nhưng thực tế, chính quyền đơ hộ phải vất vả chống đỡ với sức sống
mãnh liệt của người Việt. Ý thức dân tộc ln ln phát triển và đi theo chiều
hướng hợp với sự tất yếu của lịch sử. Sớm hay muộn thì nước ta cũng sẽ giành
được độc lập.
3. Nỗi thống khổ của nhân dân ta
Chính quyền Trung Quốc đơ hộ bóc lột nhân dân ta chủ yếu bằng cách bắt
cống nạp. Hàng năm, dân ta phải nộp cống nào sừng tê, ngà voi, gỗ trâm, lơng
chim trả , nào ngọc trai, đồi mồi, san hơ , hoa quả q của ta như vải, nhãn,
quất, dừa , các thứ sản phẩm thủ cơng nổi tiếng là vải cát bá (vải đệt bằng sợi
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
11
bơng, có loại mịn rất thống vì sợi nhỏ và săn), giấy trầm hương, đường phèn,
đồ khảm xà cừ đều phải nộp cống. Cả đến những người thợ thủ cơng khéo tay,
giỏi tướng số đều trở thành vật nộp cống. Bóc lột bằng cách bắt cống nạp là sự
cướp đoạt, vơ vét tàn nhẫn.
So với miền Nam Trung Quốc lúc đó, đất nước ta là nơi “đất rộng người
nhiều”, “ruộng bãi phì nhiêu”, “của lạ núi biển khơng đâu sánh bằng”. Chủ
trương của chính quyền đơ hộ là chủ trương “tuỳ đất đó sản xuất vật gì thì tạm
thời thu lấy thuế khố vật đó, khơng có phép tắc, luật lệ cố định”(Theo lời tâu
cua một viên quan với Hán Cao Tổ).
Sĩ Nhiếp mỗi năm thu hàng ngàn tấm vải cát bá, hàng trăm ngựa và nhiều
thứ lâm thổ sản q khác. Tơn Tư đã bắt hàng ngàn thợ thủ cơng sang xây kinh
đơ Kiến Nghiệp (Nam Kinh).
Cùng với việc nộp cống, nhân dân ta còn phải nộp nhiều thứ tơ thuế nặng
nề. Ruộng phải nộp tơ. Người phải nộp thuế. Đặc biệt, muối và sắt là hai thứ
thuế bị đánh thuế rất nặng. Ngồi ra, mỗi năm nhân dân ta còn phải đi phu hàng
tháng trời để đắp đường, đào kênh, xây thành… phục vụ bọn quan qn đơ hộ.
Thuế má đã nặng, bọn quan lại còn vơ vét thêm vào cho đầy túi riêng.
Lịch sử Trung Quốc còn ghi: “ở đất Giao Chỉ… thứ sử trước sau đều khơng
thanh liêm, trên đỡ bợ kẻ quyền q, dưới thì vơ vét của cải của dân, đầy túi thì
xin đổi về nước”.
Ách thống trị và bóc lột tàn bạo, phản động của phong kiến Trung Quốc
đơ hộ nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất đã xơ đẩy tổ tiên ta vào một cuộc sống đầy
rẫy hiểm nghèo. Nhân dân bị chèn ép, đè nén, bóc lột nặng nề. sản xuất, văn
hố, xã hội vị kìm hãm nghiêm trọng. Mất nước là điều đau khổ nhất trong mọi
điều đau khổ.
Song khơng chịu khuất phục, nhân dân ta khơng ngừng đấu tranh để duy
trì cuộc sống, phát triển kinh tế, văn hố và giành lại quyền độc lập.
II. Q TRÌNH BẢO TỒN NỀN VĂN HỐ DÂN TỘC VÀ ĐẤU
TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
12
Cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài giữa xâm lược, đơ hộ, đồng hố với
chống xâm lược, chống đơ hộ và chống đồng hố đã chi phối tồn bộ cuộc sống
của nhân dân ta trong tiến trình lịch sử Bắc thuộc. Những gì là cơ sở tồn tại, là
sức mạnh tinh thần để phục hồi quốc gia, quốc thể từ lãnh thổ, tiếng nói, phong
tục tập qn, lối sống, ý thức tư tưởng của dân tộc ta đều bị chúng dùng trăm
phương ngàn kế huỷ diệt.
Nhưng cũng chính trong thời gian mất nước kéo dài, nhân dân ta đã nêu
cao tinh thần bất khuất, kiên cường và bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ
gìn, phát huy tinh hoa của nền văn hố lâu đời và quyết giành lại bằng được độc
lập dân tộc.
1. Chống đồng hố để bảo tồn các di sản văn hố của dân tộc
Dân tộc ta trở thành một ngoại lệ trong chính sách Hán hố của Trung
Quốc. Sự thật là như thế bởi lịch sử là một minh chứng hùng hồn, đanh thép
nhất. Lịch sử Trung Quốc ghi nhận: “Dân tộc Hoa và các dân tộc khác nhau
trong nội bộ Trung Quốc và ở bốn chung quanh có văn hố khác nhau nên
thường xảy ra chiến tranh. Kết quả cuộc đấu tranh, văn hố Hán được mở rộng,
Trung Quốc cũng được mở rộng. Đến cuối đời Đơng Chu, phàm các dân tộc đã
tiếp thu văn hố Hoa Hạ và đại thể đã hồ hợp thành một dân tộc Hoa”.
“Đã hồ hợp thành một dân tộc hoa”? Nếu vậy thì khơng còn Man, Di
Địch, Nhung nữa ư? Đúng là phần lớn khơng còn. Nhưng ít ra là vẫn còn một,
ấy là Lạc Việt Nam man - Lạc Việt, đứng trước tai hoạ “đồng hố”, khơng chịu
“đồng hố”, khơng chịu di dời đi xứ lạ mà cứ “bám đất, bám làng”, ở “Nam
Man”, Bắc quốc thực thi chính sách đồng hố dễ dàng thuận lợi hơn ở “Bắc
Địch” và “Tây Nhung” vì miền Bắc, miền Tây là những đồng cỏ, sa mạc, còn
Âu Lạc, Giao Châu là đồng ruộng phì nhiêu. Cho nên đơng đảo người Hán
xuống Nam hơn là lên Bắc sang Tây. Nhưng cũng là vất vả hơn cả bởi đồng hố
người Việt là điều khơng thể dễ dàng!
“Văn hố còn thì tộc người còn” (lời Gs Đặng Nghiêm Vạn). Nếu một
dân tộc đánh mất đi nền văn hố của mình thì cũng có nghĩa là họ đã chết, tuy
khơng chết cứng về mặt sinh học nhưng họ đã tự đánh mất đi vị thế của mình
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
13
trong vũ trụ. Văn hố của họ đã hồ vào dòng chảy của văn hố khác và họ sẽ
khơng tồn tại với tư cách là một tộc người. Người Việt biết được điều đó nên đã
tự chọn lựa cho mình con đường đấu tranh, bảo tồn văn hố dân tộc.
Trong qúa trình giao thoa văn hố Việt - Hán đã diễn ra theo hai chiều
hướng: giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện. Cả hai đã góp phần tích cực
vào việc làm phong phú, đậm đà văn hố Việt, khẳng định bẩn lĩnh của chính
mình.
Người Hán di cư xuống Nam sống chung chạ với người Việt, đời này đến
đời kia, thế kỉ này đến thế kỉ nọ, trải qua thời gian thì tự nhiên dòng máu Hán
Việt sao khỏi pha trộn. Nhưng, lạ thay, mà cũng là tự nhiên thơi, rốt cục rồi lịch
sử khơng chứng kiến sự đồng hố, sự Hán hố mà ghi nhận một thực tế ngược
lại: Việt hố mạnh hơn Hán hố, Hán hố yếu hơn Việt hố hồn tồn khơng
phải vì chính quyền đơ hộ thờ ơ mà vì xóm làng Việt, cộng đồng Việt tỏ ra ưu
điểm trong đối nhân xử thế, làm cho người nước ngồi cảm phục, thuận tình. Có
thể lấy ví dụ điển hình là Lí Bí - đã lập nước Vạn Xn - là cháu 7 đời của một
người Tây Hán sang lánh nạn ở Giao Châu.
Cộng đồng người Việt là một cộng đồng gắn bó chặt chẽ trong làng xã,
các xóm làng là một cấu trúc đặc biệt bền vững, khó có một vũ khí nào của
chính quyền đơ hộ có thể phá vỡ, chọc thủng. Ở đây, mọi ngọn nguồn của người
Việt được ni dưỡng, được rèn luyện. Trong qúa trình chống đồng hố, một lần
nữa bản lĩnh người Việt được thể hiện. Nhân dân ta vừa tiếp thu có chọn lọc
những giá trị tinh hoa của Hán vừa ra sức quyết tâm duy trì nên văn hố bản địa.
Việc mở các trường học đào tạo người có tri thức phục vụ cho chúng nhưng
cũng có một hệ quả ngược lại là khơng thể tránh khỏi nhiều người Việt học giỏi,
hiểu biết rộng mà đi với phong trào giải phóng dân tộc. Điển hình là Tinh Thiều
- cánh tay đắc lực của Lí Bí. Hơn nữa, chỉ một số người thuộc tầng lớp trên sống
ở các huyện lị đi học và chịu ảnh hưởng còn đại đa số nhân dân lao động ở các
làng xã nước ta vẫn nói tiếng nói của tổ tiên.
Người Việt học chữ Hán mà đọc bằng tiếng Việt. Người Việt học chữ
Hán mà dựa vào chữ Hán để sáng tạo ra chữ Nơm của riêng mình. Nhờ chữ Hán,
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Xem chi tiết: 212557


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét