Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
sức mạnh đó là vì tư duy trừu tượng đã sử dụng phương pháp trừu tượng hoá và
khái quát hoá những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp. Tư duy trừu tượng
được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Khái niệm là
kết quả của quá trình trừu tượng hoá và khái quát hoá những tài liệu do nhận thức
cảm tính đem lại. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ
quan. Mọi khái niệm khoa học đều được hình thành, bổ sung và phát triển trên cơ
sở phản ánh những thành tựu của khoa học và thực tiễn. Có thể xem những khái
niệm đã hình thành như những vật liệu để xây dựng nền tri thức khoa học, hệ
thống lý luận.
Phán đoán là một trong những hình thức của tư duy trừu tượng, liên kết các
khái niệm đã có lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một
thuộc tính nào đó của sự vật hiện tượng. Theo trình độ phát triển của nhận thức,
phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù
và phán đoán phổ biến. Trong đó phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự bao
quát rộng lớn nhất về đối tượng. Nếu như khái niệm phản ánh những thuộc tính
chung, bản chất của sự vật, hiện tượng thì phán đoán phản ánh những mối quan hệ,
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và các mặt giữa chúng. Như vậy phán đoán là
một hình thức biểu đạt các quy luật khách quan. Một phán đoán phản ánh đúng
đắn hiện thực khách quan sẽ mang lại giá trị chân thực, nếu phản ánh không chân
thực là giả dối. Như vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở phán đoán mà nhất thiết
phải có suy luận.
Suy luận là sự liên kết một số phán đoán đã biết lại với nhau để rút ra một
phán đoán mới. Trong suy luận, chúng ta nhận thức thế giới một cách gián tiếp
dựa trên việc sử dụng những tri thức đã đạt được để suy ra tri thức mới. Tuỳ theo
sự kết hợp các phán đoán theo trật tự nào (từ phán đoán đơn nhất qua phán đoán
đặc thù, rồi tới phán đoán phổ biến hoặc ngược lại) mà người ta có được hình thức
suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Như vậy tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực khách quan thông qua
những hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận. Những hình thức này
không tách rời nhau, chúng có mối liên hệ biện chứng, tác động và quy định lẫn
nhau. Tư duy trừu tượng là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp
mang tính trừu tượng và khái quát. Đó là sự phản ánh sâu sắc, là sự nhận thức
bằng khái niệm. Khái niệm là sản phẩm cao nhất của bộ óc con người bởi vì khái
niệm phản ánh được những thuộc tính, bản chất, tính quy luật của sự vật.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu
trình nhận thức. Chúng có những đặc điểm khác nhau nhưng thống nhất biện
chứng với nhau. Mỗi giai đoạn, mỗi yếu tố có vị trí và vai trò của nó trong quá
trình nhận thức. Chúng bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, đem lại cho con người những
hiểu biết sâu sắc về sự vật. Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn cảm tính thì
con người sẽ không thể nào khám phá ra được bản chất, quy luật của sự vật.
Ngược lại, nếu tư duy trừu tượng không bắt nguồn từ cảm tính thì sẽ không có cơ
sở và khả năng phản ánh đúng đắn sự vật được. Cho nên nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính là hai giai đoạn, hai yếu tố không thể tách rời nhau của một quá
trình nhận thức thống nhất. Từ nhận thức cảm tính đến lý tính là sự chuyển hoá
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
biện chứng, là sự nhảy vọt từ sự hiểu biết cụ thể cảm tính đến sự hiểu biết khái
quát về bản chất sự vật.
2. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng cơ bản của triết học
Mác - Lênin nói chung và của lý luận nhận thức macxit nói riêng. Trong lịch sử
triết học không phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đắn về
phạm trù này. Theo chủ nghĩa duy tâm, thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng
tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất. Ngược lại,
chủ nghĩa duy vật trước Mác mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hành động vật chất
của con người, nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Nó
không có vai trò gì đối với nhận thức của con người.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu
tố hợp lí trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai
trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Hai ông cho rằng: thực tiễn là toàn bộ những hoat động vật chất có
mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã
hội. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác -Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học
nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng
theo những mục đích của mình. Những hoạt động ấy là những hoạt động đặc trưng
và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và
không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kì lịch sử. Chính vì vậy
mà thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử -
xã hội.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú,
song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã
hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức
hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người
sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải và
những điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại của mình và xã hội. Còn hoạt
động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát
triển. Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn , được tiến
hành nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Mỗi hình thức hoạt động có một chức năng quan trọng khác nhau, song
giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt
động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với
các hoạt động khác. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các
hình thức hoạt động khác. Ngược lại, các hình thức hoạt động chính trị và thực
nghiệm khoa học cũng không hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt
động sản xuất vật chất. Chúng cũng có tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động
sản xuất phát triển.
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Như vậy, chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ
bản đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò
quan trọng đối với nhận thức.
Mặt khác, quá trình nhận thức, mục đích của nó không phải chỉ là để nhận
thức. Hơn nữa, tư duy trừu tượng là sự phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan,
muốn biết kết quả của nhận thức đúng hay sai lầm buộc phải trở về thực tiễn để
kiểm nghiệm, đồng thời áp dụng vào thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có
hiệu quả.
Do đó, thực tiễn chính là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý. Bởi vì, thực tiễn là những hoạt động vật chất có tính tất
yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức. Nó luôn luôn vận động và phát
triển trong lịch sử, nhờ đó mà thúc đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi
sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của
thực tiễn. C.Mác đã viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt
tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý” .
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý mà thực tiễn là điểm
bắt đầu và cũng là điểm kết thúc của một quá trình. Như thế, sự kết thúc này lại là
sự bắt đầu của một quá trình mới và cứ thế vận động mãi mãi, làm cho nhận thức
của con người ngày càng sâu sắc hơn, nắm bắt được bản chất và các quy luật của
thế giới khách quan, phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người
III. THỰC TIỄN VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM
1. Kinh tế Việt Nam thời kì 10 năm đầu sau khi đất nước được thống
nhất (1976 – 1985)
Ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1975), dưới sự
lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta bắt đầu tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi cả nước. Giữa thập niên 70, với nền kinh tế phổ biến là sản xuất
nhỏ, lại bị chiến tranh kéo dài tàn phá nặng nề, Việt Nam đặt mục tiêu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong hoàn cảnh
đất nước vừa mới hoà bình thống nhất. Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bước
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển, Liên Xô xây dựng cơ sở vật chất ban
đầu của chủ nghĩa cộng sản. Hoàn cảnh đó tạo nhiều thuận lợi cho Việt Nam xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Tại đại hội IV (12/1976) của Đảng đã xác định đường lối
chung và đường lối xây dựng nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới ở
nước ta.
Đường lối xây dựng nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa do đại hội IV đề ra như
sau: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ
sở phát triển công nghiệp và nông nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và
nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế
Trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ
sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng” .
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Đường lối đó được cụ thể hoá bằng việc xác định miền Bắc trên cơ sở đẩy
mạnh công nhiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiép tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới, xây dựng và cải tiến chế độ quản lý, mở rộng và củng cố thành phần
kinh tế quốc doanh về mọi mặt. Việc các hợp tác xã nhanh chóng mở rộng quy
mô, tổ chức lại thành quy mô lớn trên địa bàn cấp huyện đã trở thành một phong
trào rầm rộ và rộng khắp. Ở miền Nam, phấn đấu đến năm 1980 về cơ bản đã hoàn
thành cải tạo xã hội chủ nghĩa. Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các tư bản tư
doanh thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và tiểu thương được tiến hành mạnh mẽ, ồ
ạt trong hai năm 1977 và 1978. Mô hình hợp tác xã quy mô lớn ở miền Bắc được
áp dụng rộng rãi vào các tỉnh miền Nam, nên đến năm 1980, việc đưa nông dân
vào hợp tác xã đã trở nên phổ biến.
Tuy nhiên với một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, chủ yếu bằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chức lại sản xuất
và mở rộng quy mô hợp tác xã, áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với
hy vọng có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn, chúng ta đã bộc lộ tư tưởng chủ quan,
nóng vội, duy ý chí cả trong lý luận lẫn chỉ đạo thực tiễn. Điều đó đã dẫn đến kết
quả thực tế trái với ý định và dự kiến tốt đẹp ban đầu. Các mục tiêu đại hội IV đề
ra đều không đạt được. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất chậm chạp, thậm chí
đến cuối những năm 70 đã bước vào khủng hoảng, sản xuất trì trệ, giá cả tăng
nhanh, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Trước tình hình đó, Hội nghị
Trung ương 6 khoá IV năm 1979 đã đánh giá lại tình hình, chỉ ra những sai lầm
trong lãnh đạo kinh tế, chủ yếu là trong viêc xây dựng kế hoạch mang tính tập
trung quan liêu, chưa kết hợp kế hoạch với thị trường, chưa sử dụng đúng đắn các
thành phần kinh tế cá thể và tư sản dân tộc ở miền Nam, chậm khắc phục sự trì trệ,
bảo thủ trong việc xây dựng các chính sách cụ thể về kinh tế, tài chính để khuyến
khích sản xuất, có biểu hiện giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
miền Nam.
Vì vậy, tháng 3 năm 1982, tại đại hội lần V của Đảng đã xác định những
chủ trương lớn, đề ra đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt bao gồm thời
kì 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990: “trong 5 năm 1981 - 1985 và
những năm 80, cần tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số nghành công
nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công
nghiệp nặng trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Quyết tâm đẩy mạnh cải tạo
xã hội chủ nghĩa, hoàn thành về cơ bản hợp tác hoá nông nghiệp ở các tỉnh phía
Nam với hình thức phổ biến là tập đoàn sản xuất. Phấn đấu hoàn thành về cơ bản
cải tạo thương nghiệp, vận tải công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở các tỉnh phía
Nam bằng cách làm và hình thức thích hợp trong một thời gian nhất định, ở miền
Nam vẫn còn 5 thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể
và tư bản tư nhân)” .
Trong thời kì này, tuy có nhiều khó khăn trở ngại, nhưng nước ta cũng đã
đạt được một số thành tựu quan trọng, một số chỉ báo có mức tăng trưởng khá hơn
so với thời kì 1976 - 1980. So với năm 1976, tổng sản phẩm xã hội năm 1980 chỉ
tăng 4,2% thì trong giai đoạn 1981 - 1985 tổng sản phẩm xã hội đã tăng 42,3%,
bình quân tăng 7,3%/ năm, riêng năm 1985 tăng 50,5%. Hàng trăm công trình xây
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
dựng tương đối lớn trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải,
văn hoá xã hội… đã được xây dựng trên khắp các miền của đất nước, góp phần
phát triển thêm một bước lực lượng sản xuất. Tài sản cố định của nền kinh tế quốc
dân cũng đã được tăng lên đáng kể, so với năm 1976 thì năm 1980 là 129,2%
nhưng đến năm 1985 đã tăng 205,3% (tính theo giá năm 1982).
Sau khi thực hiện chủ trương tập trung cao độ cho sản xuất nông nghiệp,
coi “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” do Đại hội lần V đề ra cùng với chế độ
“khoán 100”, chúng ta đã ngăn chặn được tình hình giảm sút của những năm
trước. Nông dân nhiệt tình và đầu tư nhiều hơn cho sản xuất. Đầu tư của Nhà nước
cho ngành nông nghiệp cũng được tăng cao. Trong thời kì này, Nhà nước đã thực
hiện chủ trương khai hoang, phục hoá, tăng vụ, diện tích gieo trồng đã được tăng
thêm 1,5 triệu ha, đã cung ứng thêm cho nông nghiệp gần 10.000 máy kéo các loại,
đưa tỉ lệ cơ giới hoá làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Do vậy, sản xuất nông
nghiệp trong giai đoạn 1981 - 1985 đã đạt một bước phát triển quan trọng. Năm
1985, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 126,9% so với năm 1980, bình quân
hàng năm tăng 4,9%. Sản lượng lương thực tăng 27%, đạt 18,2 triện tấn, bình quân
đầu người đạt 304 kg (so với mức 268 kg năm 1980). Nhờ những cố gắng trên mặt
trận nông nghiệp mà lương thực, thực phẩm và những yêu cầu bức thiết của đời
sống nhân dân cơ bản đã được đảm bảo.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm đến vấn đề phát triển
công nghiệp, tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Để
tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước trong những năm qua, Nhà nước đã
đầu tư vào các ngành công nghiệp gần 65 tỉ đồng (tính theo giá năm 1982), chiếm
trên 40% tổng số vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất, có tốc độ tăng cao hơn
mức tăng bình quân của toàn bộ khu vực vật chất. Trong đó chúng ta đã đầu tư vào
nhóm A trên 70% và nhóm B dưới 30%. Trong giai đoạn này, nhiều công trình
tương đối lớn đã được xây dựng như nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thuỷ điện Hoà
Bình, khu dầu khí Vũng Tàu… Do đó, giá trị tài sản cố định của toàn ngành công
nghiệp đã tăng lên đáng kể, đạt 18,6 tỉ đồng, bằng 40% tổng giá trị tài sản cố định
mới tăng thuộc khu vực này. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 57,4%, tốc
độ tăng bình quân hàng năm đạt 9,5%. Kết quả một mặt là do những cải tiến quản
lí trong công nghiệp quốc doanh theo tinh thần quyết định 25/CP, làm cho các xí
nghiệp quốc doanh trở nên năng động, sản xuất công nghiệp được “bung ra”, cơ
cấu công nghiệp điều chỉnh theo hướng đẩy mạnh hơn các ngành công nghiệp nhẹ,
nên năm 1985 tỷ trọng của công nghiệp nhẹ trong giá trị tổng sản lượng công
nghiệp chiếm 67,3% (so với 56,9% năm 1980).
Mặc dù có những tiến bộ đáng kể trong giai đoạn này, nhưng nhìn chung
công nghiệp Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé, năm 1985 mới thu hút được 10,7% tổng
số lao động xã hội, chủ yếu là lao động thủ công với năng suất thấp. Tuy chiếm
41% giá trị tài sản cố định của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhưng công nghiệp
chỉ tạo ra được 28,2% thu nhập quốc dân, hiệu quả sản xuất trên một đồng vốn đầu
tư rất thấp. Công nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, nền kinh tế nước ta trong thời kì
này cũng bộc lộ nhiều yếu kém, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần
thứ hai và thứ ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra thì chỉ có 7 chỉ
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
tiêu đạt 50 - 80% so với kế hoạch, còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 - 48%. Điều đó đã
ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân lao động.
Cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có của nền kinh tế quốc dân còn yếu kém, thiếu
đồng bộ, cũ nát, trình độ kĩ thuật nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kĩ
thuật của những năm 1960 trở về trước); công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng
được nhu cầu tối thiểu; công nghiệp nhẹ bị phụ thuộc 70 - 80% nguyên liệu nhập
khẩu. Do đó, đại bộ phận lao động xã hội vẫn đang còn là lao động thủ công. Nền
kinh tế chủ yếu vẫn còn là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội kém phát triển.
Năng xuất lao động xã hội rất thấp.
Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Sản
xuất phát triển chậm, không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Sản
xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa vào nguồn bên ngoài ngày
càng lớn. Năm 1985, dân số cả nước là gần 59,9 triệu người, tăng bình quân 2,3%/
năm trong 10 năm. Để đảm bảo việc làm và thu nhập của dân cư không giảm thì ít
nhất nền kinh tế phải tăng bình quân 7%/ năm. Nhưng thực tế nền kinh tế không
đạt được như vậy, nên sản xuất trong nước luôn không đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng tối thiểu của dân cư. Trong 10 năm này, thu nhập quốc dân sản xuất trong
nước chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc dân sử dụng. Toàn bộ quỹ tích luỹ lớn ( rất
nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài (riêng lương
thực đã phải nhập 5,6 triệu tấn trong thời gian 1976 - 1980). Năm 1985, nợ nước
ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp - USD. Các hố ngăn cách giữa nhu cầu và năng lực sản
xuất ngày càng sâu.
Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nhất là đối với cán bộ, công nhân
viên, lực lượng vũ trang và một bộ phận nông dân. Tiền lương thực tế bình quân
hàng tháng của cán bộ công nhân viên chức so với năm 1975 thì năm 1980 chỉ
bằng 51,1%; năm 1984 bằng 32,7%. Do đó, tiêu cực và bất công xã hội tăng lên.
Trật tự xã hội bị giảm sút. Những điều đó chứng tỏ trong thời gian này nước ta bị
khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng.
Sở dĩ nền kinh tế nước ta còn có những hạn chế yếu kém như trên, một
phần là do chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá nặng nề với hậu quả rất nghiêm trọng.
Mặt khác, trong công tác xây dựng và quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước cũng
đã mắc phải một số sai lầm khuyết điểm như sau:
+)Về đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và bước đi
Sau khi nước nhà được thống nhất, việc đánh giá tình hình cụ thể về các
mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu xót. Do đó, trong 10 năm qua
đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở
vật chất, kĩ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý (có tư tưởng chủ quan, nóng
vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết…Trong 5 năm 1976 - 1980, trên thực
tế, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các
tiền đề cần thiết).
+) Về bố trí cơ cấu kinh tế
Ta có sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, thường chỉ xuất phát từ lòng mong
muốn đi nhanh không tính tới điều kiện và khả năng thực tế. Trong các kế hoạch 5
năm đã thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn,
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
không tập trung sức giải quyết về vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
+) Về cải tạo xã hội chủ nghĩa
Trong lĩnh vực này cũng có sai lầm biểu hiện ở chỗ nóng vội, muốn xoá bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản
tư nhân thành quốc doanh. Trong cải tạo, cách làm thường gò ép, chạy theo số
lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả, sau những đợt làm nóng vội lại buông lỏng
quản lý. Do đó, không ít tổ chức được gọi là công tư hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp
tác sản xuất chỉ là hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất mới.
+) Về cơ chế quản lí kinh tế
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp được duy trì quá lâu, đã
gây tác hại trong nhiều năm, nhưng chưa bị xoá bỏ. Nhiều chính sách thể chế đã
lỗi thời chưa được thay đổi. Trong thời gian này tuy có một số cải tiến quản lý
nhưng còn chắp vá, thiếu đồng bộ, không ăn khớp, thậm chí trái ngược nhau.
Về cơ chế mới, chúng ta chỉ mới đưa ra được phương hướng, còn nội dung,
hình thức, bước đi, cách làm cụ thể còn chưa rõ. Đặc biệt khi lĩnh vực phân phối
lưu thông căng thẳng và rối ren, thâm hụt ngân sách nặng nề dẫn đến lạm phát
trầm trọng, dẫn đến cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền cuối năn 1985, nhưng
đã phạm sai lầm về các giải pháp cụ thể trong việc định giá, định mức lương, đổi
tiền, xác định bước đi trong điều chỉnh giá - lương - tiền thiếu chuẩn bị chu đáo.
Do chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, lại điều hành không nhạy bén,
nên từ trên xuống dưới hành động không thống nhất. Một số người và cơ sở lợi
dụng sơ hở của cơ chế mới để mưu lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ (đục nước béo
cò).
Rõ ràng về mặt quản lý, ta còn thiếu hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lý, lại
chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và học tập kinh nghiệm của các
nước anh em.
+) Về thực hiện quản lý
Quản lý bị buông lỏng, pháp luật và kỉ cương của Nhà nước bị vi phạm
ngày càng phổ biến. Ngoài ra chúng ta còn thấy rằng: “Những sai lầm và khuyết
điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt
động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân” .
Như vậy thời kì 1976 - 1985, trên phạm vi cả nước đã áp dụng mở rộng mô
hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp mà miền Bắc đã xây dựng trước đây.
Những nhược điểm của mô hình kinh tế này đã trở thành sức cản lớn đối với sự
phát triển đất nước, làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trở nên
gay gắt. Cuộc sống đòi hỏi cấp thiết phải thay đổi mô hình cũ bằng mô hình mới,
phù hợp để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Đổi mới trước hết trên lĩnh vực
kinh tế đã trở thành vấn đề sống còn của dân tộc.
2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội VI của Đảng với tinh thần “nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, đã nghiêm khắc tự phê bình những chủ trương,
chính sách sai lầm vừa qua, mang tính giáo điều, bảo thủ, lại vừa chủ quan, duy ý
chí trong việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó. Đại hội đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, đi vào
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
thế ổn định và phát triển. Đường lối đổi mới của chúng ta dựa trên cơ sở tổng kết
những kinh nghiệm thực tiễn, những sáng tạo của nhân dân và trên cơ sở nghiên
cứu lý luận, từ bỏ những ảo tưởng đã từng có trong cán bộ và nhân dân về một mô
hình có sẵn, cũng như những ảo tưởng chủ quan, duy ý chí, cần phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan, “lấy dân làm gốc”, và
được tiến hành từng bước phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Đại hội VI
của Đảng (1986) là một điểm mốc đặc biệt quan trọng của quá trình đổi mới, bởi ở
đó lần đầu tiên hình thành một cách toàn diện nhất mục tiêu, nội dung, con đường
và các biện pháp tiến hành đổi mới. Có thể diễn đạt một số nội dung cơ bản của
đổi mới đã và đang được thực hiện kể từ Đại hội VI cho đến nay như sau:
a. Đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội với tính cách là mục tiêu đi tới
của dân tộc Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Mục tiêu đó thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, được chủ tịch Hồ Chí Minh kế
thừa từ truyền thống hàng ngàn năm của dân tộc và phát triển với những nội dung
mới trong thời đại ngày nay. Chính vì vậy, việc kiên trì định hướng xã hội chủ
nghĩa đã được toàn thể nhân dân Việt Nam ủng hộ tích cực.
b. Chuyển nền kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu,
bao cấp dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
c. Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo giữ
vững ổn định chính trị xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, sự bình đẳng
giữa các dân tộc trong nước. Mở rộng dân chủ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, tạo dựng một xã hội văn minh.
d. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân. Thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”. Từng bước xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân. Con người được đặt ở vị trí trung tâm của mọi chính sách của Đảng và
Nhà nước.
e. Thực hiện chính sách đối ngoại đa phương, mở cửa, tăng cường giao lưu,
hợp tác quốc tế với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn với tất các các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Đổi mới là đường lối sáng tạo, độc đáo, độc lập, tự chủ của Việt Nam, phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc ta trong giai đoạn hiện nay. Chính vì
vậy, trong khi cải tổ, cải cách, sửa chữa sai lầm ở các nước gặp thất bại thì đổi mới
của Việt Nam đã đạt được những thành tựu cơ bản, to lớn và có ý nghĩa quan
trọng trên nhiều phương diện.
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng
sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Ở
nước ta, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản
xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến
bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói
giảm nghèo. Từ những mục tiêu đề ra ở trên, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta trong những năm vừa qua đã có nhiều
bước chuyển biến mới.
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Vượt qua những khó khăn, thử thách do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh ở
trong nước và những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới và khu vực,
năm 2006 nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào về tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,1%,
cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong đó, khu vực nông - lâm - thuỷ sản tăng
3,4%, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 10,37%, khu vực dịch vụ tăng 8,29%.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng khu vực công nghiệp -
xây dựng từ 40,97% năm 2005 tăng lên 41,52% năm 2006, khu vực dịch vụ từ
38,01% tăng lên 38,08% và khu vực nông - lâm - thuỷ sản từ 21,02% giảm xuống
còn 20,40% trong thời gian tương ứng.
Nhìn chung các ngành, các lĩnh vực đều duy trì được đà tăng trưởng khá. Các
chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Năm 2006, sản
xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng trưởng khá cao. So với năm 2005, giá trị sản
xuất nông nghiệp ước tính tăng 3,1% trong đó trồng trọt tăng 1,9%; chăn nuôi tăng
7,7%; lâm nghiệp tăng 1,2% và dịch vụ tăng 2,7%. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt
7,16 tỉ USD, tăng 19,7% so với năm 2005. Dù bị thiên tai, sâu bệnh phá hoại nặng
nề nhưng sản lượng lương thực có hạt vẫn đạt 39,65 triệu tấn, không những đảm
bảo đủ tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu được 4,7 triệu tấn gạo. Sản xuất lúa
đang chuyển dần theo hướng ổn định và giảm dần diện tích, đồng thời chuyển đổi
cơ cấu mùa vụ, tăng diện tích lúa đông xuân, giảm diện tích lúa mùa năng suất
không ổn định, tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất và tăng sản lượng, đa
dạng hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu gạo.
Bên cạnh đó, theo tổng cục thống kê, năm 2006 ngành công nghiệp trong
nước cũng tăng trưởng cao. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,1% kim ngạch
xuất khẩu, đạt hơn 30 tỉ USD, chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước, tăng 22,4% so với năm 2005. Ngành cũng đã đạt kỉ lục về thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 490 dự án và số vốn trên 5 tỉ USD. Trong đó,
khu vực Nhà nước tăng 9,1% (trung ương tăng 11,9%, địa phương tăng 2%), khu
vực ngoài Nhà nước tăng 23,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,8%.
Trong ba ngành công nghiệp cấp một, giá trị sản xuất công nghiệp khai thác chiếm
7,8% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và tăng 1,1% so với năm trước. Sản xuất
phân phối điện, ga và nước chiếm 5,7%; tăng 13%. Công nghệ chế biến chiếm
86,4%; tăng gần 19%, là lĩnh vực đóng góp chính vào tăng giá trị sản xuất công
nghiệp cả nước năm 2006.
Nghị quyết Đại hội Đảng đã được cụ thể hoá bằng nhiều chính sách hinh tế
vĩ mô nhằm đạt mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu. Một trong những thành tựu quan
trọng nhất của chính sách đổi mới là tổng mức lưu thông hàng xuất - nhập khẩu
đạt 84 tỉ USD, tăng 22,5% so với năm 2005. Trong đó xuất khẩu tăng đột biến, giá
trị kim ngạch ước đạt 39,6 tỉ USD, tăng 22,1%, vuợt xa mục tiêu đề ra đầu năm là
tăng 16,4%. Đáng chú ý trong số các mặt hàng xuất khẩu đã có tới 9 mặt hàng đạt
kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD. Hiện nay trong khối ASEAN, chúng ta đứng
thứ 6 sau Philipine, kim ngạch chiếm 0,3% so với tổng xuất khẩu của thế giới.
Những thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước cũng dần tạo
thế chủ động trong điều hành sản xuất kinh doanh của các đơn vị chủ thể. Việc
tham gia trực tiếp của người sản xuất vào quá trình tiêu thụ sản phẩm ở thị trường
trong nước và ngoài nước đã gắn bó chặt chẽ sản xuất với tiêu dùng, chất lượng
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
sản phẩm nâng lên rõ rệt, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng sản phẩm chế
biến sâu và tinh, giảm tỉ trọng hàng thô hay mới sơ chế. Tuy hàng thô hay mới sơ
chế còn khá cao nhưng có thể nói xu hướng tăng tỉ trọng hàng chế biến là rõ nét.
Đây là một hướng đi đúng đắn, đặc biệt trong bối cảnh nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đang
diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, vì vậy việc mở cửa kinh tế, hội nhập
vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu
hút được vốn, kĩ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các
nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực,
tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và
đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu
vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn
giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan
hệ kinh tế đối ngoại.
Sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào đầu những năm 90 đã đặt nền
ngoại thương nước ta trước thách thức “đa phương hoá quan hệ thương mại, tích
cực thâm nhập tạo chỗ đứng ở các thị trường mới” để phát triển. Trong thời gian
qua đã diễn ra những thay đổi quan trọng về chính sách ngoại thương mở cửa của
nước ta bằng việc tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực: Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN - 1995), diễn đàn kinh tế các nước Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC - 1998), nối lại quan hệ ngoại giao với Hoa Kì (1995), trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO… Vào năm 1986, Việt
Nam có quan hệ xuất khẩu với 43 quốc gia, năm 2000 là 192 quốc gia nhưng đến
nay đã có hơn 200 nước. Thị phần xuất nhập khẩu có sự chuyển biến mạnh mẽ,
nếu giai đoạn 1986 - 1990 chiếm tỉ trọng lớn nhất là Châu Âu (+65,3%) mà trong
đó chủ yếu là khối Đông Âu (chiếm 57,1% so tổng số), thì các giai đoạn sau đó,
quan hệ thương mại của Việt Nam chuyển hướng sang các nước Châu Á cũng
chiếm tới 2/3, trong đó cao nhất là với khối các nước Đông Nam Á (tỉ trọng chiếm
trên 20%). Quan hệ với Châu Mĩ tăng khá nhanh, nếu trước khi cải cách đổi mới tỉ
lệ kim ngạch so với tổng số chiếm không đáng kể (+0,6%), tới nay tỉ lệ này tăng
tới 11,1%, trong đó góp phần chủ yếu là Hoa Kì, trước năm 2001 chỉ dưới 3,5%,
giai đoạn hiện nay tăng lên 9,3%.
Từ khi mở rộng quan hệ đối ngoại kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới,
nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đã tăng lên đáng kể trên mọi lĩnh vực:
công nghệ kĩ thuật cao, dự án sản xuất vật liệu mới, ứng dụng công nghệ mới về
sinh học và công nghệ mới về sản xuất thiết bị thông tin, viễn thông, chế biến
khoáng sản… Theo bộ kế hoạch và đầu tư, 9 tháng đầu năm 2006, cả nước đã thu
hút thêm được 580 dự án mới có tổng số vốn đầu tư đăng kí 3,8 tỉ USD, tăng
47,7% (tăng hơn 1,2 tỉ USD) so với cùng kì năm 2005. Chỉ riêng tháng 9, cả nước
có thêm 154 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng kí 886
triệu USD, tăng hơn nhiều so với 18 dự án và 99,45 triệu USD của tháng 8 năm
2006. Dẫn đầu là lĩnh vực công nghệ - xây dựng thu hút được nhiều số dự án và
vốn đầu tư nước ngoài, chiếm gần 70% tổng số dự án và hơn 67,4% tổng vốn đăng
kí. Tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ chiếm gần 24,7% tổng số dự án và gần 31% tổng
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét