Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Phân tích quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
5
không đúng lợng vốntừ đó ảnh hởng tiêu cực đến việc định giá trị doanh
nghiệp và gây thiệt hại cho Nhà nớc. Ngợc lại, hiện tợng cơ quan kiểm
toán định giá cao hơn giá trị thực của doanh nghiệp lại có thể làm thiệt hại cho
ngời mua cổ phần.
d) Về việc xác định đối tợng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần:
Các đối tợng đợc phép mua cổ phần đó là: các tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, công dân Việt Nam, ngời nớc ngoài định c ở Việt Nam trong đó
CBCNV tại các DNNN là đối tợng đợc u tiên mua cổ phần.
Về số lợng cổ phần đợc mua có quy định nh sau:
Loại doanh nghiệp mà Nhà nớc giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt: Một pháp nhân đợc mua không quá 10%, một cá nhân đợc mua không
quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
Loại doanh nghiệp mà Nhà nớc không nắm cổ phần chi phối, cổ phần
đặc biệt: Một pháp nhân đợc mua không quá 20%, một cá nhân đợc mua
không quá 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
Loại DNNN không tham gia cổ phần: không hạn chế số lợng cổ phần
lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân đợc mua nhng phải đảm bảo số cổ đông
tối thiểu theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp.
Trên đây là mức quy định cụ thể về đối tợng mua cũng nh mức mua cổ
phần, tuy nhiên nghị định 44/CP đã có sự điều chỉnh nhằm khuyến khích việc
mua cổ phần. Cụ thể là mọi ngời mua cổ phần sẽ đợc vay một cổ phiếu khi
mua một cổ phiếu bằng tiền mặt. Với ngời lao động, họ sẽ đợc Nhà nớc
bán cổ phần với mức giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối tợng khác,
mỗi năm làm việc tại doanh nghiệp đợc mua tối đa 10 cổ phần. Đối với ngời
lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá, ngoài việc đợc mua cổ phần
u đãi họ còn đợc hoãn trả tiền mua cổ phần trong 3 năm đầu mà vẫn đợc
hởng cổ tức, số tiền này sẽ trả dần trong 10 năm không phải trả lãi.

II/ Đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống DNNN và sự cần thiết phải
tiến hành CPH ở Việt Nam:
1. Tình hình hoạt động của các DNNN tại Việt Nam hiện nay:
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trờng định hớng XHCN ở nớc ta hiện nay, khu vực Kinh tế Nhà nớc phải
giữ vai trò chủ đạo nhằm chi phối nền kinh tế quốc dân cũng nh giúp đỡ các
thành phần kinh tế khác. Song trên thực tế, hiệu quả hoạt động của khu vực
Kinh tế Nhà nớc nói chung và hệ thống DNNN nói riêng còn tồn tại rất nhiều
yếu kém.
Trên địa bàn cả nớc hiện nay, chúng ta có khoảng 5800 DNNN nắm giữ
88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhng hiệu quả kinh
doanh rất thấp. Chỉ có trên 40% DNNN là hoạt động có hiệu quả, trong đó
thực sự làm ăn có lãi và lâu dài chỉ chiếm dới 30%. Trên thực tế, DNNN nộp
ngân sách chiếm 80-85% tổng doanh thu, nhng nếu trừ khấu hao cơ bản và
thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp đợc trên 30% ngân sách Nhà nớc.
Đặc biệt nếu tính đủ chi phí và TSCĐ, đất tính theo giá thị trờng thì các
DNNN hoàn toàn không tạo ra đợc tích luỹ.
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
6
Đánh giá thực lực các DNNN trên 3 mặt: vốn- công nghệ-trình độ quản
lý, có thể thấy:
Vốn: Các doanh nghiệp luôn trong trạng thái đói vốn. Tình trạng doanh
nghiệp phải ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh đã xuất hiện. Tình trạng
doanh nghiệp không có vốn và không đủ khả năng huy động vốn để đổi mới
công nghệ đợc coi là phổ biến. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn thấp kém,
thất thoát vốn của Nhà nớc ngày càng trầm trọng. Năm 1998 chỉ tính riêng
số nợ khó đòi và lỗ luỹ kế của các DNNN đã lên đến 5.005 tỷ đồng . Theo
Tổng cục Quản lý vốn và tài sản Nhà nớc tại doanh nghiệp , trong số gần
5800 DNNN, chỉ 40,4% đợc đánh giá là hoạt động có hiệu quả (bảo toàn
đợc vốn, trả đợc nợ, nộp đủ thuế, trả lơng cho ngời lao động và có lãi) ;
44% số doanh nghiệp hoạt động cha có hiệu quả, khó khăn tạm thời ; còn
15,6% số doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tổng cộng, có tới trên
59,6% DNNN hoạt động kém hiệu quả.
Công nghệ: Công nghệ của các DNNN lạc hậu so với trình độ chung của
khu vực và của thế giới (thờng từ 2-3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu tới
5-6 thế hệ), 76% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50-60 và chủ yếu
do Liên Xô cũ và các nớc Đông Âu cung cấp. Hiện nay có đến 54,3% DNNN
trung ơng và 74% DNNN địa phơng còn sản xuất ở trình độ thủ công, hiệu
quả sử dụng trang thiết bị bình quân dới 50% công suất. Đó chính là nguyên
nhân làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trờng nội
địa cũng nh quốc tế hết sức thấp kém. Điều này thực sự là một nguy cơ đối
với các doanh nghiệp Nhà nớc và với nền kinh tế trong quá trình hội nhập
vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới.
Trình độ, năng lực và bản lĩnh quản lý còn thấp so với yêu cầu. Ta thấy
rằng, ở các doanh nghiệp Nhà nớc, quyền sở hữu không gắn với quyền quản
lý vốn và tài sản. Mặt khác, do những nguyên nhân lịch sử, do ảnh hởng của
cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp Nhà nớc
có số lợng lao động lớn, cơ cấu lao động bất hợp lý, đội ngũ cán bộ quản lý
kinh tế vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu. Bên cạnh trách nhiệm về kinh tế, mối
doanh nghiệp còn phải đảm trách nhiều chức năng xã hội nữa.
Từ tình hình trên, có thể thấy khu vực kinh tế Nhà nớc không phải là
điểm sáng nh chúng ta mong đợi, đặc biệt nó vẫn cha thực sự thể hiện tốt
vai trò chủ đạo vủa mình. Do đó vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có một loạt
những giải pháp tiến hành đồng bộ. Trong đó, CPH DNNN là một trong
những biện pháp đợc Đảng và Nhà nớc đặt lên vị trí then chốt, hàng đầu.
2. Sự cần thiết phải tiến hành CPH doanh nghiệp Nhà nớc :
Xuất phát từ thực tế nêu trên, thực hiện CPH là một nhiệm vụ rất cần
thiết và quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, CPH sẽ giải
quyết đợc các vấn đề sau:
Thứ nhất: Thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất
và lực lợng sản xuất. CPH góp phần thực hiện chủ trơng đa dạng hoá các
hình thức sở hữu. Trớc đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ
công hữu, thể hiện ở một số lợng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy
quan hệ sản xuất này không phù hợp với lực lợng sản xuất còn nhiều yếu
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
7
kém, lạc hậu. Vì vậy CPH sẽ giải quyết đợc mâu thuẫn này, giúp lực lợng
sản xuất phát triển.
Thứ hai: Thực hiện CPH nhằm xã hội hoá lực lợng sản xuất, thu hút
thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện CPH , ngời lao động sẽ gắn bó , có
trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành ngời chủ thực sự của doanh
nghiệp. Ngoài ra, phơng thức quản lý đợc thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên
năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Thứ ba: Bên cạnh đó, CPH là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và
phát triển thị trờng chứng khoán, đa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu
vực và trên thế giới.
Thứ t: Thực hiện CPH là một trong những giải pháp quan trọng
nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nớc vào phát triển kinh tế. Với
việc huy động đợc các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng
sản xuất kinh doanh, đầu t đổi mới công nghệ, nâng cao đợc khả năng cạnh
tranh trên thị trờng, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả
tầm vĩ mô và vi mô. Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ
là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý
ở cả phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh tế quốc dân.
Thứ sáu: Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền
kinh tế trong quá trình đổi mới.
Nh vậy, đứng trớc thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN,
CPH với những u điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ
trơng đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi mới, phù hợp với giai đoạn quá độ
đi lên CHXH ở nớc ta.
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
8
Phần B:
Thực trạng cổ phần hoá - Những kết quả ban đầu và
những khó khăn cần tháo gỡ:
I/ Tiến trình thực hiện cổ phần hoá trong những năm vừa qua:
1. Giai đoạn thí điểm (1992 - 1996):
Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng ( nay là Thủ tớng Chính
phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số doanh
nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tớng
Chính phủ ban hành tiếp Chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm
CPH doanh nghiệp Nhà nớc và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu
đối với doanh nghiệp Nhà nớc .
Quyết định số 202/CT đã chọn 7 doanh nghiệp Nhà nớc làm thí điểm,
đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực
thuộc TW chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành
công ty cổ phần.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định số 202/CT và Chỉ thị số
84/TTg (1992-1996) cả nớc chỉ CPH đợc 5 doanh nghiệp bao gồm: 3 DN
trung ơng và 2 DN địa phơng. Đó là các doanh nghiệp :
Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực
hiện CPH : 1/7/1993.
Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện
CPH : 1/10/1993.
Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện CPH:
1/10/1994
Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày
thực hiện CPH : 1/7/1995.
Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát
triển nông thôn - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
2. Giai đoạn mở rộng (5/1996 - 6/1998):
Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thí điểm cổ phần hoá, ngày
7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh
nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ mục
tiêu, đối tợng thực hiện cổ phần hoá, quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá
trị doanh nghiệp, chế độ u đãi đối với doanh nghiệp và ngời lao động trong
doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phầnNhờ đó tốc độ CPH đã tăng lên
rõ rệt.
Kể từ khi Nghị định 28/CP đợc ban hành đến hết tháng 5/1998 đã có 25
doanh nghiệp Nhà nớc chuyển thành công ty cổ phần. Nh vậy tính gộp từ
năm 1992 đến tháng 5/1998 cả nớc đã có 30 doanh nghiệp đã hoàn thành cổ
phần hoá với số vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng ( bình quân 9,6 tỷ
đồng/công ty) và gần 6000 lao động. Không chỉ tăng lên về số lợng, diện
CPH cũng đã mở rộng hơn, đã có 3 Bộ và 9 Tỉnh, Thành phố có doanh nghiệp
CPH. Trong số các doanh nghiệp đã CPH , có 12 doanh nghiệp đã hoạt động
từ một năm trở lên theo Luật công ty. Những doanh nghiệp trớc khi cổ phần
hoá gặp khó khăn, nh xí nghiệp Mộc Hà nội, xí nghiệp Đóng tàu thuyền Bình
Định, xí nghiệp Giày Hiệp An, mặc dù không đợc Nhà nớc hỗ trợ vốn,
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
9
nhng đã cố gắng khắc phục khó khăn và phát triển sản xuất-kinh doanh liên
tục hàng năm.
Để hỗ trợ cho công tác CPH , trong thời gian này, các cấp các ngành đã
triển khai việc củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban chỉ đạo CPH ở địa
phơng và thành lập các ban chỉ đạo CPH Chính phủ, trung ơng Đảng, Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam.
3. Giai đoạn thực hiện theo Nghị định 44/CP đến nay:
Trong giai đoạn này, nhờ những chuyển biến thuận lợi về cơ sở pháp lý
mà nổi bật là sự ra đời của Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 và việc thành lập
Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp TW, con số các doanh nghiệp CPH đã tăng
nhanh so với các thời kỳ trớc.
Sau hơn 2 năm thực hiện CPH doanh nghiệp Nhà nớc theo Nghị định số
44/CP, từ tháng 6/1998 đến hết tháng 8/2000 cả nớc đã cổ phần hoá 430
doanh nghiệp đa tổng số doanh nghiệp Nhà nớc đã thực hiện cổ phần hoá
lên 460 doanh nghiệp.
Trong số những doanh nghiệp đã CPH , những doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực Công nghiệp và Xây dựng chiếm khoảng 44,2%; Dịch vụ thơng mại
chiếm 39,2%; Giao thông vận tải chiếm 9,5%; Nông nghiệp chiếm 4,1% và
thuỷ sản chiếm 2%. Hầu hết các doanh nghiệp đã CPH đều tơng đối nhỏ,
những công ty có tổng số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm khoảng 12%, trong
khi các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng chiếm đến hơn 50%. Vốn
trung bình của các doanh nghiệp đã CPH chỉ vào khoảng 3,1 tỷ đồng. Đa số
các doanh nghiệp thực hiện CPH theo hình thức thứ 2 nghĩa là bán một phần
giá trị vốn của Nhà nớc nắm giữ trong doanh nghiệp.
Tính tới thời điểm 31/12/1999, trong số các địa phơng thực hiện CPH ,
Hà Nội là thành phố có số doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều nhất, gồm 70
doanh nghiệp trong tổng số 210 doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố thực
hiện cổ phần hoá, tiếp theo là TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định và
Thanh Hoá.
Các doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động
có hiệu quả cao hơn về nhiều mặt, kể cả những doanh nghiệp mới CPH. Một
số doanh nghiệp trớc CPH gặp nhiều khó khăn thì sau CPH các doanh nghiệp
này đã có những tiến bộ rõ rệt, bảo đảm việc làm, tăng thu nhập cho ngời lao
động.
Nh vậy, trên thực tế, Nghị định 44/CP đợc ban hành đã tạo ra một hành
lang pháp lý khá thông thoáng, khuyến khích cả doanh nghiệp và ngời lao
động tham gia cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc .
Tuy nhiên, tiến trình cổ phần hoá trong thời gian qua còn chậm so với
yêu cầu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nớc. Sáu tháng cuối năm 1998, kế
hoạch đặt ra là CPH 150 doanh nghiệp, thực hiện chỉ là 100 doanh nghiệp
đợc CPH (đạt 66,6%). Năm 1999, kế hoạch đặt ra là CPH 450 doanh nghiệp,
nhng chỉ thực hiện đợc 250 doanh nghiệp (đạt 55,5%).
Để thực hiện nhanh và có hiệu quả công tác cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nớc , phải giải quyết nhiều vấn đề, từ nhận thức t tuởng, cơ chế chính
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
10
sách đến tổ chức thực hiện, từ doanh nghiệp đến các cơ quan quản lý Nhà
nớc.
II/ Những kết quả ban đầu mà cổ phần hoá DNNN đem lại:
1. Hiệu quả của cổ phần hoá:
a) Đối với doanh nghiệp:
Nhìn chung, doanh nghiệp là đối tợng đợc lợi nhiều nhất từ chính sách
cổ phần hoá. Hầu hết các doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần đều
hoạt động có hiệu quả hơn trớc xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi
nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốnNhiều doanh nghiệp đã thoát ra khỏi tình
trạng nợ nần, phá sản, khắc phục đợc những hạn chế do cơ chế quản lý cũ
nh nạn tham nhũng, lãng phí trong sản xuất, sự thiếu trách nhiệm trong lao
động, quản lý trì trệ, yếu kém
Kết quả hoạt động của 15 doanh nghiệp đã đợc CPH trớc năm 1998 là
rất khả quan. Những lợi ích mà CPH mang lại cho doanh nghiệp đợc thể hiện
rất rõ qua những con số sau:
Báo cáo hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã CPH có thời gian
hoạt động trên 1 năm cũng cho thấy những số liệu rất khả quan, cụ thể nh
sau:
Doanh thu tăng bình quân gần 2 lần: Điển hình công ty cổ phần Cơ điện
lạnh năm 1999 đạt 178 tỷ đồng, gấp gần 4 lần so với trớc khi CPH ; công ty
cổ phần bông Bạch Tuyết năm 1999 đạt 86 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với trớc
khi CPH
Lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần, cổ tức bình quân đạt 1-2%/tháng.
Vốn tăng gần 2,5 lần (bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận và thu hút thêm
vốn đầu t từ bên ngoài) : Nổi bật là công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu
Long An vốn tăng 5 lần; công ty cổ phần Việt Phong vốn tăng 2,4 lần
Ngoài những lợi ích kinh tế kể trên, khi CPH DNNN còn có thêm những
lợi ích khác góp phần tích cực vào việc năng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh:
Thứ nhất: Năng lực sx-kd của doanh nghiệp tăng lên nhờ đợc bổ sung
nguồn vốn lu động và đầu t đổi mới công nghệ. Về nguyên tắc, tất cả số
tiền bán cổ phiếu, sau khi trừ đi các chi phí sẽ đợc điều chuyển để bổ sung
vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: Doanh nghiệp có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh.
Sự chuyển đổi này đã hạn chế thấp nhất những can thiệp thô bạo, phi kinh tế
của các cơ quan công quyền, hạn chế các chỉ đạo vốn có của một DNNN.
Thứ ba: Doanh nghiệp đã có đợc một cách quản lý mới mang tính dân
chủ. Với việc CPH , doanh nghiệp đã chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần,
cũng có nghĩa là xác định vai trò chủ nhân tập thể. Hội đồng quản trị sẽ thực
sự làm chủ công ty với động lực lợi nhuận, vì lợi ích của các cổ đông (trong
đó có chính mình), thay mặt các cổ đông và đợc các cổ đông bầu lên chứ
không phải ai khác.
b) Đối với Nhà nớc:
Lợi ích đầu tiên mà Nhà nớc thu đợc từ chính sách CPH là phần thuế
thu đợc từ các công ty cổ phần tăng hơn so với khi còn là DNNN, tất cả các
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
11
CTCP đều đóng thuế đầy đủ, năm sau cao hơn năm trớc từ 30-35%, nộp ngân
sách tăng bình quân 2 lần so với trớc khi CPH : cụ thể nh CTCP cơ điện
lạnh tăng gần 3 lần, CTCP sơn Bạch Tuyết tăng 2,7 lần
Theo số liệu của 17 công ty cổ phần, Nhà nớc đã thu đợc 377.244 triệu
đồng từ các nguồn sau:
Tiền thu về bán cổ phần: 30.207 triệu đồng
Phần lợi tức của Nhà nớc tại các CTCP: 6.905 triệu đồng
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV: 522 triệu đồng
Về huy động vốn: Tại thời điểm CPH trớc 31/12/1999, 370 doanh
nghiệp CPH có giá trị phần vốn Nhà nớc là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện
CPH đã thu hút thêm 1.432 tỷ đồng, đồng thời Nhà nớc cũng đã thu lại đợc
714 tỷ đồng để đầu t vào các DNNN và giải quyết một số chính sách cho
ngời lao động trong DNNN thực hiện CPH.
Phần vốn Nhà nớc tại các doanh nghiệp CPH khi xác định lại, nhìn
chung đều tăng từ 10-50% so với giá trị ghi trên sổ sách. Nh vậy, khi CPH
vốn Nhà nớc không bị mất đi, đợc bảo toàn mà còn tăng thêm.
Ngoài những lợi ích trên, từ kết quả cổ phần hoá, hàng năm Nhà nớc
không còn tốn một khoản ngân sách lớn để bù đắp cho các DNNN thua lỗ, cán
cân thu chi của Nhà nớc đợc cân bằng hơn. Hệ thống các cơ quan quản lý
Nhà nớc đợc hoàn chỉnh và gắn với mục tiêu của nền kinh tế. Chính cơ chế
tạo chuyên môn hoá dẫn đến sự thay đổi về trình độ quản lý đạt mức cao. Nhà
nớc có điều kiện quản lý nền kinh tế thông qua các chính sách vĩ mô.
Cổ phần hoá đã đặt cơ sở cho thị trờng vốn ra đời bằng việc ra mắt Uỷ
ban chứng khoán quốc gia và Trung tâm giao dịch chứng khoán vừa qua, làm
cơ sở để Nhà nớc kiểm soát lạm phát. Lợng tiền lu thông trong xã hội
trong tơng lai gần sẽ chuyển một phần vào thị trơng vốn, thực hiện tái đầu
t trên diện rộng hoặc tập trung vốn giải quyết các công trình trọng điểm của
Nhà nớc.
c) Đối với ngời lao động:
Có thể nói, nhờ CPH mà ngời lao động đã trở thành ngời chủ thực sự
của doanh nghiệp xét theo cổ phần mà họ sở hữu. Qua CPH các DNNN, tất cả
ngòi lao động trong doanh nghiệp bằng các nguồn vốn tự có, quỹ phúc lợi
của doanh nghiệp đợc phân bổ và cả vốn riêng của cá nhân, đều có thể tham
gia mua cổ phần tại công ty, xí nghiệp đợc cổ phần hoá.
Với việc góp vốn này, ngời lao động , từ công nhân trực tiếp sản xuất
đến vị giám đốc, đều có thể trở thành ngời chủ thực sự đối với doanh nghiệp,
đợc tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào việc lập phơng hớng kế hoạch,
chiến lợc kinh doanh của doanh nghiệp với quyết tâm và ý chí chung là gặt
hái đợc hiệu quả cao nhất, tốt nhất.
Trong thực tế, các doanh nghiệp Nhà nớc đợc CPH bảo đảm việc làm
và thu nhập của ngời lao động ổn định và có chiều hớng tăng lên. Do mở
rộng sản xuất, số lao động ở các DN này tăng bình quân 12%. Thu nhập của
ngời lao động làm việc tai các công ty cổ phần tăng bình quân hằng năm gần
20% (cha kể thu nhập từ cổ tức). Điển hình trong năm 1999, ngời lao động
tại công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển có thu nhập 4 triệu
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
12
đồng/ngời/tháng bằng gần 3 lần so với trớc khi CPH; công ty cổ phần Ong
mật TP.HCM đạt 1,3 triệu đồng/ngời/tháng bằng 2,6 lần so với trớc khi
CPH
Việc đầu t vào các công ty cổ phần, nói chung ngời lao động đã thu
đợc lợi tức cao hơn gửi tiết kiệm và vốn của họ trong công ty tăng gấp 1,5-2
lần so với lúc mới mua cổ phiếu. Do lãi cao đã bổ sung thêm vào vốn, đến nay
giá trị cổ phần ngời lao động sở hữu bình quân tăng gấp 2-3 lần, đặc biệt có
những công ty tăng tới 4-5 lần nh CTCP Cơ điện lạnh và CTCP Đại lý liên
hiệp vận chuyển.
Là chủ nhân thực sự trong CTCP, ngòi lao động đã nâng cao tính chủ
động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp
phần làm hiệu quả hoạt động của DN ngày một nâng cao, mang lại lợi ích
thiết thực cho bản thân mình, công ty, Nhà nớc và xã hội.
2. Đánh giá nguyên nhân:
Với những kết quả nêu trên, chúng ta có cơ sở để khẳng định chính sách
CPH một bộ phận DNNN là phù hợp và đúng đắn trong giai đoạn hiện nay. Cổ
phần hoá đã thực sự đem lại nhiều lợi ích cụ thể không chỉ cho doanh nghiệp
mà còn cho cả Nhà nớc và bản thân ngời lao động. Những thành công đó có
thể xuất phát từ những nguyên nhân sau.
a) Đảng và Nhà nớc đã nhận thức đợc vai trò và sự cần thiết phải tiến
hành cổ phần hoá một bộ phận DNNN:
Để khắc phục tình trạng khủng hoảng của nền kinh tế nớc ta giai đoạn
1980-1990, Đảng và Chính phủ đã có chủ trơng đổi mới kinh tế nhằm đa
nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, nghèo nàn, lạc hậu. Một trong
những giải pháp đợc Đảng và Nhà nớc lựa chọn là CPH một bộ phận
DNNN nhằm sắp xếp lại các DNNN, nâng cao vị thế chủ đạo của khu vực
kinh tế Nhà nớc. Đảng ta đã mạnh dạn tiến hành thí điểm và sau gần 10 năm
thực hiện đã thu đợc những kết quả rất khả quan.
b) Đảng và Nhà nớc đã bớc đầu quan tâm, chỉ đạo tiến trình CPH:
Đảng và Nhà nớc ta đã dành rất nhiều quan tâm cho công tác cổ phần
hoá, thể hiện qua việc theo dõi sát sao tiến trình thực hiện, không ngừng đúc
kết kinh nghiệm và khắc phục hạn chế, ban hành kịp thời nhiều văn bản pháp
quy hớng dẫn, tạo điều kiện cho công tác CPH, gần đây nhất là nghị định
44/CP (29/6/1998), các Quyết định 145/TTg(28/6/1999), 177/TTg(30/8/1999).
Nội dung của Nghị định 44/CP là một bớc tiến lớn so với các văn bản trớc
đây, thể hiện một cách nhìn mới của Đảng và Nhà nớc ta về vấn đề CPH.
Nghị định 44 ra đời đã tạo một bớc phát triển mới trong tiến trình thực hiện
CPH , hoàn thiện và đẩy nhanh tốc độ CPH làm cho CPH đạt hiệu quả cao
hơn.
c) Nội dung CPH là đúng đắn, mục tiêu CPH đặt ra là cụ thể, mang tính
khả thi; lợi ích mà CPH mang lại là cụ thể, khách quan và gắn với
bản thân doanh nghiệp và ngời lao động.
Có thể nói, CPH đã nh một luồng gió mới thổi sinh khí vào khu vực
Kinh tế Nhà nớc , mang lại sức sống cho khu vực kinh tế này, từ đó mang lại
hiẹu quả cho Nhà nớc, doanh nghiệp và ngời lao động.
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
13
Cổ phần hóa thực sự tạo động lực cho đầu t phát triển kinh tế. Thông
qua CPH thu hút đợc một lợng lớn nguồn vốn trong dân c, tạo tiền đề mở
cửa cho thị trờng vốn trong nớc, nâng cao hiệu quả đầu t phát triển sản
xuất.
d) CPH đã thực sự nâng cao quyền làm chủ của ngời lao động trong
doanh nghiệp, gắn lợi ích của ngời lao động với lợi ích của doanh
nghiệp, từ đó thúc đẩy họ hăng say sản xuất, trách nhiệm với công
việc, góp phần nâng cao hiệu quả sx-kd.

e) Các nhà lãnh đạo DNNN và các CBCNV đã nhận thức đợc đợc lợi
ích và sự cần thiết cổ phần hoá.

III/ Những khó khăn cần đợc tháo gỡ:
1. Những hạn chế của công tác cổ phần hoá:
a) Về vấn đề tốc độ cổ phần hoá:
Kể từ thời điểm doanh nghiệp đầu tiên tiến hành CPH (7/1993), tiến độ
CPH không năm nào đạt chỉ tiêu kế hoạch ( năm 1993: 2 doanh nghiệp ;
1994:1 ; 1995: 2 ; 1996: 5 ; 1997: 5) , năm 1998, chỉ tiêu là 150 doanh nghiệp
đợc CPH thì chỉ có 100 doanh nghiệp , năm 1999 số doanh nghiệp đợc CPH
là 250 so với kế hoạch là 450. Nh vậy, nếu hoàn thành đúng theo kế hoạch
thì nay ta đã có khoảng hơn 600 doanh nghiệp đợc CPH. Trên thực tế, đến
8/2000 ta mới CPH đợc 460 doanh nghiệp. Tốc độ CPH nh vậy đã không
đáp ứng đợc yêu cầu sắp sếp lại doanh nghiệp Nhà nớc.
b) Khuôn khổ pháp lý cho cổ phần hóa còn quá nhiều bất cập:
Các quy định về chế độ với doanh nghiệp sau CPH vẫn cha rõ ràng. Các
quy định đợc sửa đổi và bổ sung thờng thì càng về sau càng có lợi, càng có
nhiều u đãi. Chính vì vậy, về mặt tâm lý, các doanh nghiệp không muốn triển
khai nhanh mà chờ đợi để đợc hởng u đãi nhiều hơn.
Các văn bản quy định về CPH đã đợc ban hành cũng có nhiều vấn đề
cần xem xét lại. Quy định về bán cổ phần u đãi cho ngời lao động cũng
không đợc cụ thể hóa, linh hoạt. Có nơi ngời lao động không có tiền mua cổ
phần u đãi; lại có nơi do vốn Nhà nớc ít, số lợng cổ phần bán ra hạn chế,
không đủ cho nhu cầu.
Cho đến nay, quá trình CPH còn cha có một phơng hớng chiến lợc
rõ ràng. Từ trớc đến nay, CPH đợc chủ yếu tiến hành trên cơ sở tự nguyện
mà không có quy định phải u tiên CPH đối với loại hình doanh nghiệp hay
thành phần kinh tế nào. Trên thực tế, Chính phủ dờng nh đi theo con đờng
CPH các doanh nghiệp nhỏ trớc, các doanh nghiệp lớn sau. Do đó, tỷ lệ các
doanh nghiệp lớn chỉ chiếm một phần nhỏ trong số các doanh nghiệp đã đợc
CPH .
Bên cạnh đó, nhiều địa phơng không thực sự quan tâm đến vấn đề CPH
và coi đó là nhiệm vụ của các cấp ban nghành cao hơn. Sự phân quyền, hớng
dẫn và phối hợp giữa địa phơng và TW cha thực sự thông suốt cũng là
những nhân tố góp phần kéo dài quá trình CPH.
c) Về vấn đề t tởng:
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
14
Nhiều doanh nghiệp (gồm cả lãnh đạo và ngời lao động) cũng nh
nhiều cấp quản lý vẫn ngại CPH do sợ mất đi nhiều quyền lợi. Có ngời lại
nhận thức sai về CPH cho rằng việc việc chuyển đổi hình thức sở hữu sẽ dẫn
đến mất chế độ, chệch hớng XHCNCó tình trạng phân biệt đối xử giữa các
DNNN và các DN đã CPH nhất là tại các tổ chức tín dụng ngân hàng. Việc
tìm đối tác liên doanh, liên kết ở các công ty cổ phần cũng gặp khó khăn.
Doanh nghiệp Nhà nớc vẫn đợc u đãi nhiều hơn. làm ăn thua lỗ vẫn đợc
vay không phải trả lãi, bù lỗ từ ngân sách Nhà nớc và một số u đãi khác. Tất
cả đều tác động lớn tới tâm lý của các doanh nghiệp chuẩn bị bớc vào CPH.
Mặt khác, nhiều giám đốc của các doanh nghiệp Nhà nớc sợ rằng CPH
sẽ làm mất đi quyền lực vốn có bấy lâu nay. T tởng bao cấp đã ăn sâu vào
suy nghĩ của nhiều doanh nghiệp nên cố tình trì hoãn CPH, lảng tránh nhiệm
vụ mới.
d) Về công tác chỉ đạo cổ phần hoá:
Trong một thời gian dài, việc chỉ đạo, tổ chức điều hành CPH đợc tiến
hành một cách rời rạc bị động. Ban đổi mới DNNN không chủ động giao chỉ
tiêu và chỉ đạo sát sao việc thực hiện mà ngồi đợi các doanh nghiệp tự động
đăng ký. Bản thân Ban đổi mới DNNN cha hoạt động chuyên trách, đội ngũ
quá mỏng, cha đủ trình độ và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề phức tạp,
lại cha có đủ thẩm quyền chức năng để tổ chức hoạt động phối hợp làm cho
các bớc thủ tục thờng dây da kéo dài
e) Về vấn đề kỹ thuật trong việc xác định giá trị doanh nghiệp:
Nhiều chuyên gia cho rằng CPH ở Việt Nam là một quá trình rối rắm,
phức tạp và tốn thời gian, làm hao tổn các nguồn lực tài chính và làm giảm sút
sự kiên nhẫn của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam cha có một phơng
pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế.
Sự phức tạp này còn gia tăng bởi những yếu tố đi kèm nh: việc xử lý nợ khó
đòi, thẩm định giá trị nhà xởng máy móc thiết bị và quyền sử dụng đất. Do
đó việc định giá tài sản doanh nghiệp thờng là khâu kéo dài nhất (khoảng
trên 3 tháng).
Hiện nay, việc thiếu một phơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo
tiêu chuẩn quốc tế sẽ làm cho chúng ta khó khăn rất nhiều trong việc huy
động vốn từ các nhà đầu t nớc ngoài, một yếu tố không thể xem nhẹ trong
xu hớng hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay.
f) Một số vớng mắc đối với doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá:
Đối với các doanh nghiệp hiện nay, tình trạng chung là cha có đủ giấy
tờ pháp lý về quyền sở hữu TSCĐ nh nhà xởng, máy móc thiết bịViệc này
có nhiều nguyên nhân, trong đó có việc thỡng xuyên thay đổi của các luật,
văn bản dới luật, hoặc đơn giản là do hầu hết các DNNN đều qua nhiều đời
giám đốc nên không đủ biên bản bàn giaoNgoài ra còn có tình trạng nhiều
doanh nghiệp đi thuê nhà xởng, kho bãi của đơn vị khác, sau đó xây các
công trình kiến trúc lên hoặc cải tạo sửa chữa với số tiền không nhỏ gây khó
khăn cho quá trình CPH .
Ngoài ra, do một số doanh nghiệp cha nhận thức rõ tầm quan trọng và
mục tiêu của CPH, thiếu sự chặt chẽ trong phối hợp hoạt động của cấp uỷ,
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét