Lời mở đầu
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu hướng hội nhập
kinh tế khu vực và toàn cầu. Một trong những vấn đề có vị thế quan trọng
hàng đầu trong sự nghiệp mà chúng ta đang theo đuổi là vấn đề vốn – Đây
chính là cơ sở “ hạ tầng mềm” cho đầu tư phát triển. Vốn mang tính cấp
thiết, nguồn vốn đầy biến động đòi hỏi phải gây dựng, thường xuyên được
xử lý, điều chỉnh nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế, giải
quyết được những thiếu hụt trong chi tiêu của Chính phủ. Ngân hàng
thương mại với chức năng của mình cần phải có biện pháp thích hợp tập
trung mọi nguồn vốn còn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức
kinh tế, đặc biệt là các hình thức huy động trung và dài hạn để cho vay và
đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, đổi
mới công nghệ, Hệ thống ngân hàng thương mại đang phấn đấu nhằm
thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn trong nước và tranh thủ các
nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đẩy mạnh
cho vay, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong hệ thống ngân hàng, đồng
thời tập trung giảm tỷ lệ nợ quá hạn, vốn không được thực hiện (non-
performing loans) và kiểm soát chất lượng tín dụng.
Nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam,
NHNo Thanh Xuân đã và đang hoàn thiện, phát huy hơn nữa vai trò và thế
mạnh của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
NHNo Thanh Xuân trong thời kì đổi mới đã có bước chuyển mình quan
trọng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, kinh
doanh vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần vào công cuộc cải cách nền kinh tế
đất nước. Vì vậy, em chọn đề tài “ Hoạt động huy động vốn tại NHN
&PTNT CN Thanh Xuân” làm chuyên đề báo cáo trong thời gian thực tập
của mình.
5
Chuyên đề bao gồm có 3 chương như sau :
Chương I: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại.
ChươngII: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT CN
Thanh Xuân
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại
NHNo&PTNT CN Thanh Xuân
Do thời gian nghiên cứu lý luận và thực tập ngắn cộng với trình độ
hiểu biết còn hạn chế do vậy chuyên đề này còn có nhiều thiếu sót. Rất
mong nhận được sự đóng góp và chỉ bảo của các thầy cô. Em xin chân
thành cảm ơn TS. Nguyễn Phú Giang đã tận tình hướng dẫn cùng các cô
chú, anh chị công tác phòng kế hoạch – kinh doanh, phòng hành chính –
nhân sự và các cán bộ nhân viên khác trong ngân hàng đã giúp đỡ em hoàn
thành chuyên đề thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn !
6
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm NHTM
Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10/ 1998, NHTM
được định nghĩa như sau: “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán”. NHTM là một doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai mặt cơ bản:
- Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ
quan nhà nước.
- Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu.
Các loại hình NHTM :
+ NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn nhà
nước.
+ NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty
cổ phần.
+ Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo
luật pháp nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại.
+ Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp
của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại
Việt Nam và hoạt động theo luật pháp Việt Nam.
Quá trình phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của
thị trường tài chính thông qua các giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản
7
đến phức tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nghiệp vụ của NHTM hoạt động
rất đơn giản nhưng càng về sau, theo đà phát triển của kinh tế hàng hoá, tổ
chức cũng như các nghiệp vụ của các ngân hàng càng phát triển và hoàn
thiện hơn. Ngày nay các NHTM có xu hướng phát triển ngày càng toàn
diện với quy mô rộng cùng nhiều loại hình dịch vụ huy động tối đa các
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho vay. Sự phát triển của các
ngân hàng không còn nằm trong phạm vi một quốc gia mà mang tính chất
toàn cầu. Ví dụ: Ngân hàng Thế Giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB), … việc áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống trang thiết bị hiện
đại càng làm cho hoạt động ngân hàng trở nên hoàn thiện .
Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng
định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc
thực thi chính sách tài chính - tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận
tiền gửi để cho vay đối với nền kinh tế, với vai trò trung gian tài chính
trong hoạt động của mình, NHTM vẫn phải tuân theo sự quản lý của Nhà
nước mà trực tiếp là Ngân hàng Nhà nước. Chính dưới sự quản lý này, hệ
thống NHTM đã thực hiện được chức năng của mình đối với nền kinh tế.
1.1.2 Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
- NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cá nhân, tổ chức kinh tế
muốn sản xuất, kinh doanh thì cần phải có vốn để đầu tư mua sắm tư liệu
sản xuất, phương tiện để sản xuất kinh doanh mà nhu cầu về vốn của
doanh nghiệp, cá nhân luôn luôn lớn hơn vốn tự có do đó cần phải tìm đến
những nguồn vốn từ bên ngoài. Mặt khác lại có một lượng vốn nhàn rỗi do
quá trình tiết kiệm, tích luỹ của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác Do
vậy NHTM là chủ thể đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
đó và sử dụng nguồn vốn huy động được cấp vốn cho nền kinh tế thông
qua hoạt động tín dụng. NHTM trở thành chủ thể chính đáp ứng nhu cầu
8
vốn cho nền kinh tế. Nhờ có hoạt động ngân hàng và đặc biệt là hoạt động
tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy
móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
- NHTM là cầu nối doanh nghiệp và thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh
nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở
đáp ứng nhu cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu thị trường về mọi phương
diện không chỉ giá cả, khối lượng, chất lượng mà còn đòi hỏi thoả mãn trên
phương diện thời gian, địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của
thị trường doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động,
củng cố và hoàn thiện cơ cấu kinh tế, chế độ hạch toán kinh tế mà còn phải
không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất,
tìm tòi và sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách
thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn,
nhiều khi vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Do đó để giải quyết khó
khăn này doanh nghiệp đến ngân hàng xin vay vốn để thoả mãn nhu cầu
đầu tư của mình. Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho doanh nghiệp
ngân hàng là cầu nối doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của
ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh,
đáp ứng nhu cầu của thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng
vững chắc trong cạnh tranh .
- NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
9
Hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả sẽ thực sự là công cụ để nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động thanh toán giữa các
ngân hàng trong hệ thống, NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền
cung ứng cho lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế,
NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các nguồn tiền, tập hợp và phân phối vốn
trên thị trường, điều khiển chúng một cách hiệu quả và thực thi vai trò điều
tiết gián tiếp vĩ mô. Cùng với các cơ quan khác, Ngân hàng luôn được sử
dụng như một công cụ quan trọng để nhà nước điều chỉnh sự phát triển của
nền kinh tế.
Khi nhà nước muốn phát triển một ngành hay một vùng kinh tế nào
đó thì cùng với việc sử dụng các công cụ khác để khuyến khích thì các
NHTM luôn được sử dụng bằng cách NHNN yêu cầu các NHTM thực hiện
chính sách ưu đãi trong đầu tư, sử dụng vốn như: giảm lãi suất, kéo dài kỳ
hạn vay, giảm điều kiện vay vốn hoặc qua hệ thống NHTM Nhà nước cấp
vốn ưu đãi cho các lĩnh vực nhất định. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá
mức nhà nước thông qua NHNN thực hiện chính sách tiền tệ như: tăng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc để giảm khả năng tạo tiền từ đó giảm khả năng cấp tín
dụng cho nền kinh tế để nền kinh tế phát triển ổn định vững chắc.
Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM thường
đạt hiệu quả trong thời gian ngắn nên thường được Nhà nước sử dụng.
- NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, khi các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ
ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các
quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát
triển kinh tế ở các quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế
thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy nền tài
chính của mỗi quốc gia cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và
NHTM với các hoạt động của mình đã đóng góp một vai trò vô cùng quan
10
trọng. Với các nghiệp vụ như thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp
vụ khác NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển.
Thông qua hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối quan hệ tín dụng
với các NHTM nước ngoài NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài
chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế .
NHTM ra đời và ngày càng phát triển dựa trên cơ sở nền sản xuất lưu
thông hàng hoá và nền kinh tế càng phát triển càng cần đến sự hoạt động
của NHTM. Với vai trò quan trọng của mình NHTM trở thành một bộ
phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.3 Các nghiệp vụ của NHTM:
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà, cung cấp vốn
cho nền kinh tế. Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay, hoạt động
ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh, đa dạng và phong phú hơn
song ngân hàng vẫn duy trì các nghiệp vụ cơ bản sau:
a) Nghiệp vụ huy động vốn:
Đây là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng
hoạt động của ngân hàng. Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình
thức khác nhau như huy động dưới hình thức tiền gửi dân cư, tiền gửi các
TCKT,phát hành giấy tờ có giá. Mặt khác trên cơ sở nguồn vốn huy động
được, ngân hàng tiến hành cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản
xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương và cho cả nước.
Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng được mở rộng, tạo uy
tín của ngân hàng ngày càng cao, các ngân hàng chủ động trong hoạt
động kinh doanh, mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế
và các tổ chức dân cư, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó các
NHTM phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất
nước, địa phương để từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp
11
nhất là các nguồn vốn trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự
nghiệp CNH – HĐH đất nước.
b) Nghiệp vụ sử dụng vốn:
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp
vụ sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân
hàng, quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Do
vậy các NHTM cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của
mình sao cho hợp lý nhất.
* Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng
với mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng
như khả năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự
trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra.
* Nghiệp vụ cho vay:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại.
NHTM đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là vấn đề mà
mọi NHTM đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợi nhuận từ hoạt
động cho vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng.
Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo thời gian
có cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; theo hình thức đảm bảo có cho
vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo; theo mục đích có cho vay bất
động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho
vay thuê mua,
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động
được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế
12
dưới các hình thức như: hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên
thị trường và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
* Nghiệp vụ khác:
NHTM thực hiện các hoạt động kinh doanh như: kinh doanh ngoại tệ,
vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân
quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm
c) Nghiệp vụ trung gian khác:
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số
nghiệp vụ khác như:
* Dich vụ thanh toán:
Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế. Các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua hoặc bán hàng hoá
và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện một cách
nhanh chóng và chính xác.
* Dịch vụ tư vấn, môi giới:
Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán chứng khoán, tư vấn cho
người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản
* Các dịch vụ khác:
Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền; cho thuê két
sắt, bảo mật
1.2 Vốn của NHTM:
1.2.1 Khái niệm vốn:
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung
gian tài chính là khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai
trò chủ đạo của các NHTM đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng
đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận
lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà NHTM phải có trước tiên là vốn.
13
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo
lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch
vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM, quyết định
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.2.2.Cơ cấu vốn:
* Vốn tự có của NHTM: là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập
được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó mang tính ổn định và là căn cứ để
quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.
* Vốn huy động: là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được
từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để
kinh doanh. Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn.
Nguồn vốn này luôn biến động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng
đối với mọi hoạt động của ngân hàng.
* Vốn đi vay: là phần vốn các Ngân hàng đi vay NHNN, các ngân hàng
khác, hoặc các tổ chức tín dụng, để bổ sung vào vốn hoạt động của mình
trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Nó có chi phí tương đối cao cho
nên chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
*Vốn khác: là phần vốn phát sinh trong quá trình thực hiện các nghiệp
vụ thanh toán, bảo lãnh, chuyển tiền…
1.3 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại:
1.3.1 Phân loại theo thời gian huy động:
- Vốn ngắn hạn: là hình thức NHTM huy động vốn không kỳ hạn và có kỳ
hạn với thời gian ngắn. Nguồn vốn này tối đa là một năm.
- Vốn trung hạn: có thời gian huy động từ một năm đến ba năm. Nguồn
vốn này được các NHTM sử dụng để cho các doanh nghiệp vay trung hạn
đối với các dự án đầu tư chiều sâu mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho bản thân doanh nghiệp.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét