Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

TÌM HIỂU KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG CÁC THẾ KỈ XI -XVIII

đi tới các thương điếm xa hơn Trung Quốc, bởi lẽ hàng hóa ở đó không có gì độc
đáo bằng đất Giao Chỉ (sau này là Giao Châu) để buôn bán. Và họ cũng dùng
những thương điếm đặt ở đất Giao Chỉ, chỉ để đưa hàng vào đất Trung Quốc bằng
cách sử dụng những dòng sông nội địa. Họ cũng có thể dùng những thương điếm
đặt tại Giao Chỉ (sau này là Giao Châu) tích chứa hàng hóa để những lái buôn đem
sang Trung Quốc hay dùng những thương điếm là nơi tiêu thụ hàng hóa địa
phương, gom góp và đôi khi có thể chế biến (da thú quý, quế…) để chuẩn bị đem đi
xa cho khỏi hư hỏng.Mối bang giao chính trị thơì đó chưa rõ nét bằng những mối
giao lưu về thương mại và tôn giáo. Có nhiều lý do nhưng có thể lý do chính là từ
những thế kỉ đầu công nguyên đến thế kỉ thử X, Việt Nam lúc đó nằm dưới sự đô
hộ của triều đình Trung Quốc.
Cũng
nên nhắc
lại rằng, nói đến Việt Nam thời kì trước thế kỉ XV ngược
lại cho đến những thế kỉ đầu công nguyên là phải kể đến vương quốc cổ Phù Nam
(Founan) tồn tại từ đầu công nguyên đến cuối thế kỉ thứ VI vương quốc này đã bị
Chân
Lạ
p
thôn tính và sau đó mang tên Thủy Chân Lạp. Ngoài ra, vương quốc cổ
Champa đã tồn tại từ năm 192 với quốc hiệu đầu tiên là Lâm Ấp (Lin Yi) cho đến
thế kỉ XVIII mới trở thành một vùng đất của Việt Nam. Tất nhiên là trước khi hòa
nhập vào Việt Nam với vị trí là những vương quốc, những quốc gia cổ này đã có sự
bang giao với Đông Nam Á và thế giới ngoại vi, nhất là với Ấn Độ. Đồng thời rất
có thể là mối bang giao giữa Phù Nam, Thủy Chân Lạp, Champa đã có những thời
kì chặt chẽ với Việt Nam.
Việc giao lưu giữa Việt Nam với Đông Nam Á và vùng ngoại vi ở những
thế kỉ trước và sau công nguyên chủ yếu là việc buôn bán giữa các quốc gia vùng
Địa Trung Hải, Trung Cận Đông, Ấn Độ với các quốc gia ở vùng Đông Dương như
tên gọi ngày nay. Các quốc gia ở Đông Dương do địa lý thiên nhiên nên là nơi sản
xuất sản phẩm quý hiếm đối với thị trường thời đó: hồ tiêu, kì nam, trầm hương,
vàng ngọc, đá quý, yến sào (tổ chim yến), các loại gỗ, tê giác, da hổ, báo, đồi mồi
và các loài thú, chim trĩ nói chung là những thứ hàng cần thiết mà những khu vực
khác không có hay hiếm. Phải kể đến cả những loại vải, lụa dệt bằng tơ, sợi,
những loại trái cây của vùng nhiệt đới, á nhiệt đới: lệ chi (vải), long nhãn…Đồng
thời những thương nhân từ phía Tây tới đã mang theo trên những con thuyền viễn
dương của mình hàng hóa sản xuất của nước họ: đồ trang sức bằng vàng, đồ pha lê,
các loại vũ khí và áo giáp chế tạo với kĩ thuật tinh xảo và rất có thể những vật dụng
dùng cho tầng lớp quý tộc và vua chúa. Trước công nguyên
sự
giao lưu giữa bán
đảo Đông Dương,
trong
đó có Việt Nam đã phát triển. Căn cứ vào những tư liệu,
thư tịch cổ, người ta có thể biết rõ ràng điều này. Nhà địa dư học Ai Cập gốc
La Mã Claudius Ptolesmee đã viết trong bộ Geographica vào khoảng cuối thế
kỉ II những giao lưu giữa La Mã và vùng Đông Nam Á với những địa danh mà
nhiều nhà nghiên cứu đang cố gắng giải mã nhưng cũng chưa thể khẳng định cụ
thể xem đó là vùng nào hiện nay. Đây là một vài ví dụ: Claudius Ptolemee đã
viết tên những vùng đất hay thương điếm (Comptoir Commercial) mà những
thương nhân La Mã (Romain) đã ghé vào (không liệt kê những địa danh liên hệ
đến những khu vực ngoài địa giới Phù Nam, Thủy Chân Lạp, Champa, Việt Nam)
được các nhà nghiên cứu nói đến trong các công trình nghiên cứu: Claudius
Ptolemee nhắc đến thương điếm ở vùng đảo Satyres, vùng đất Sinai, địa danh,
Daonas, Kottiaris, Thinai, Kattigara và những danh khác thuộc. Đông Nam Á.
Những nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau, tuy nhiên việc nhiên việc
nêu
r
õ
những ý kiến
cho chúng
ta thấy
được
trên nét khái quát về sự
giao
lưu đã

của Tây
Phương

Đông
Nam Á
trong
đó

khu vực
Đông
Dương.
Về địa danh
đảo Statyres
nhà khảo cổ học Louis Malleret đưa ra giả thuyết
đó là nhóm đảo Hòn Me, Hòn Sóc, Hòn Đất ở gần Rạch Gía. Địa danh Daonas nhà
nghiên cứu Wilhem Volz cho rằng đó là vùng sông Mê Kông và nhà nghiên cứu,
Andre Berthelot cũng đồng ý với nhận định này. Địa danh
Seros
được nhà
nghiên cứu Richard Henning cho là sông Hồng( Sông Cái) nhưng Andre
Berthelot lại cho là Quảng Trị. Với địa danh Kottiaris thì Louis Malleret cho là
vùng sông Cái Lớn nhưng Albert Hermann cho là vùng sông Mê Kông. Địa danh
Thị Nại được Luuis Malleret xác định ở vung ven biển Nam Bộ ngày nay, hoặc ở
gần Sài Gòn hoặc ở gần Bà Rịa. Riêng địa danh Kattigara đã gây ra nhiều ý kiến
khác nhau, nhưng đa số cho rằng đó thuộc về một nơi nào đó thuộc ven biển Nam
Bộ ngày nay. Nhà nghiên cứu Jirlius Klaprow trong cuốn Tableaux historiques de
I’ Asie xuất bản tại Paris năm 1826 cho rằng Kattigara là một thương điếm thuộc
vùng Vàm sông Mê Kông ở Nam Bộ. Cùng với nhận định là địa danh này ở một
nơi nào đó thuộc ven biển Nam Bộ có các nhà nghiên cứu Albert Hermann, Richard
Henning, W.M.Stein và Louis Malleret một nhà khảo cổ học chuyên nghiên cứu về
Việt Nam người đầu tiên nghiên cứu về Óc Eo đã cho rằng Kattigara nằm ở vùng
bán đảo Cà Mậu, tuy chưa dám khẳng định đó là Óc Eo.
Tuy vậy những hiện vật đã tìm thấy tại Óc Eo được Louis Malleret mô
tả trong cuốn L’Archeoloque du Dellta du Mekong,( tome III, Paris 1962) bao
gồm nhiều thứ có xuất xứ tại La Mã (Roma) và Trung Cận Đông như đồ trang sức
bằng mã não, bằng thủy tinh có màu sắc, đặc biệt là hai tấm mề đay (mesdaille)
bằng vàng, một tấm có niên hiệu năm 152 thuộc triều đại Antonin le Pieux và một
tấm khác thuộc triều đại Marc Aurele. Ngoài ra, còn một số hoa tai nhẫn bằng
vàng có kiểu dáng của nghệ thuật vùng Địa Trung Hải. Nhà nghiên cứu Lê Thành
Khôi trong cuốn L’Asie du Sud. Est( Paris1959) có nhận định về Óc Eo là trong
những thế kỉ đầu công nguyên nơi đây là một thương điếm phồn vinh vì vị trí của
nó nằm trên đoạn đường giao lưu thương mại giữa phương Tây và Ấn Độ với
Trung Quốc mà vào khoảng năm 166, có đoàn thương nhân La Mã đã đi đường
biển tới Trung Quốc. Vào khoảng triều đại của hoàng đế Marc Aurele(160) có một
phái đoàn của triều đình La Mã được phái đến đi qua đất Giao Chỉ, đi bằng đường
biển tới. Những nhà nghiên cứu đã gọi tuyến
đường
biển
t

Địa Trung Hải tới Việt
Nam và
Đông
Nam Á thời đó là
đường
Hồ Tiêu(
Ch
e
m
i
n
des Epices). Nhận xét này
không phải là không có lý do. Bởi lẽ nhu cầu của triều đình và quý tộc vùng Địa
Trung Hải lúc đó cũng rất cần đến đồ gia vị mà chủ yếu là hồ tiêu, sản phẩm của
vùng Đông Nam Á. Ngày nay người ta còn thấy những tên gọi từ thuở đó như
Takkola (chợ Hồ Tiêu) hay Narikeladvpa (đảo Dừa) ở vùng Đông Nam Á.
Con đường Hồ Tiêu đã mở ra mối bang giao giữa Đông Nam Á với các nước
Ấn Độ và phía Tây, theo thư tịch cổ ghi lại thương nhân Ấn Độ và Trung Quốc đã
dùng những con thuyền viễn dương loại lớn có thể chở từ 600 đến 700 người với kĩ
thuật đóng thuyền rất tinh vi. Những thương nhân Ấn Độ trong việc buôn bán với các
dân tộc và các quốc gia vùng Đông Dương và Đông Nam Á trong những thế kỉ trước
công nguyên vốn là những người theo đạo Bà La môn (Brahmanisme) thuộc đẳng cấp
tăng lữ ( Brahmana) hay quý tộc, võ sĩ (Kasytria) và những người thuộc giới buôn bán
tự do( Vaisya). Cũng rất có thể những người thuộc đẳng cấp tăng lữ đi cùng để truyền
đạo tại những nơi xa xôi mà sau này những nhà Đông phương học phương Tây gọi là
vùng ngoại Ấn ( Inde exterieur) hoặc sau này khi văn minh Ấn Độ đã xâm nhập vào
những quốc gia cổ ở Đông Nam Á, họ gọi vùng này là những quốc gia Ấn Độ hóa.
Cũng có trường hợp đó là những người thuộc hoàng tộc và quý tộc của
những vương triều thuộc nhiều thuộc nhiều tiểu quốc Ấn Độ đi phiêu liêu hoặc chinh
phục những vùng đất mới ở Đông Nam Á và cũng đồng thời đi trao đổi và thậm chí
cướp bóc hay khai thác tự do những tài nguyên quý hiếm ở địa phương như vàng, đá
quý, trầm hương, ngà voi, ngà tê giác…
Quan hệ giữa Phù Nam, Lâm Ấp với Trung Quốc thời kì này chỉ diễn ra dưới
hình thức triều cống. Do những biến động của chính trị nước Phù Nam bị Chân Lạp
xâm chiếm vào khoảng giữa thế kỉ VI và sau năm 627 TCN sử sách không còn nhắc
đến Phù Nam nữa. Trước đó Phù Nam có gửi hai sứ bộ sang cầu cứu nhà Đường vào
những năm 616 và 627 nhưng bị khước từ. Sau đó Phù Nam chìm vào lãng quên của lịch
sử để nhường cho một quốc gia mới xuất hiện: Chân Lạp tiền thân của Campuchia.
Nhìn chung việc buôn bán với nước ngoài, thịnh nhất vẫn là sự giao thương
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hàng bán ra chủ yếu là hương liệu, lâm sản quí, vải
mịn, gấm, giấy bản loại tốt,đường. Hàng mua vào thì đủ các loại sản phẩm thủ công,
nhất là những thứ xa hoa phục vụ bọn quan lại đô hộ. Và tất nhiên, đương thời việc
buôn bán với nước ngoài nằm trong tay chính quyền đô hộ. Người đứng ra buôn bán
ngoài các quan lại và họ hàng đều là các lái buôn Trung Quốc. Hàng phục vụ chúng rất
có hạn. Sự phát triển ngoại thương chủ yếu làm giàu các quan lại đô hộ và do đó chỉ
tăng thêm ách lao dịch của nhân dân ta. Ách bóc lột nặng nề càng trở nên nặng nề
hơn và đó cũng là lý do khiến bọn thái thú, thứ sử ở nước ta giàu lên một cách nhanh
chóng.
Nền th ư ơ ng n g hiệp n ư ớ c ta v ốn có truyền th ố ng từ lâu đ ờ i, lẽ ra phải
đ ư ợ c phát triển theo qui luật tự nhiên của nó. Nh ư ng nền t h ư ơ ng n g hiệp đó bị
n g h ừ n g trệ d ư ớ i ách thống trị v ô cù n g tàn bạo h ơ n m ột n g hàn n ă m của đế quốc
phong k iến Tr un g Hoa. Bọn quan lại thống trị đã biến đất nước giàu có của chúng ta
thành nơi cung đốn những sản phẩm tự nhiên quý giá như hương liệu, ngà voi, ngọc
trai, và bạc…và những đồ mỹ nghệ do thợ thủ công Việt Nam sang tạo ra, để thỏa mãn
ngày càng tăng lòng tham vô đáy của chúng. Với chính sách bóc lột kinh tế vô cùng
phản động như vậy, nền kinh tế nước nhà hầu như bi nghưng đọng, trong đó nền thương
nghiệp hầu như chịu hậu quả to lớn. Thương nghiệp chính là biểu hiện, là thước đo của
nền sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa không tăng đương nhiên thương nghiệp
không phát triển. Trong thời Bắc thuộc sản xuất hàng hóa ở nước ta không những
không tăng mà còn bị giảm sút, bởi lẽ chỉ có một số nghề thủ công, loại thủ công nào
đó được tồn tại để phục vụ nhu cầu xa xỉ của bon quan lại, còn lại sức lao động hầu như
bị đẩy lùi về thời kỳ tìm kiếm, hái lượm để cung cấp sản phẩm tự nhiên quý cho
chúng. Mọi hoạt động kinh tế lớn đều do bọn quan lại thống trị Trung Hoa khống chế,
lũng đoạn. Một nền kinh tế như vậy sẽ không có nhiều sản phẩm dư thừa để biến thành
hàng hóa thúc đẩy thương nghiệp tiến lên.
“Tình trạng khan hiếm hàng hóa ở nước ta bởi sức lao động bị kìm hãm, bởi
sản phẩm lao động bị tận thu vơ vét, bởi quyền lao động và hưởng thụ bị chà đạp chỉ có
thể khắc phục được sau khi thoát khỏi ách thống trị tàn khốc của phong kiến Trung Hoa.
Điều này đã được thực tế lịch sử từ sau thế kỉ X, nhất là từ thời Lý và tiếp đó là thời Trần
chứng minh rõ nét”.
9
9
Phạm Văn Kính (1979),“Bộ mặt thương nghiệp Việt Nam thời Lý –Trần”,T/C Nghiên cứu
Lịch sử, (số 6), trang 35
.
Đào Thị Phương Huyền – Luận văn tốt nghiệp trường ĐH Sư Phạm TP. Hồ Chí
Minh: Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XI-XVIII – GVHD: TS. Trần Thị
Thanh Thanh – Trang 13-17 - Năm 2009.
“Chính sách trọng nông của các triều đại phong kiến đã tạo điều kiện cho nông
nghiệp phát triển, đời sống nhân dân được ấm no, trật tự xã hội được ổn định, nền độc
lập dân tộc được củng cố và giữ vững. Đồng thời nó cũng tạo ra nguồn sản phẩm phong
phú, dồi dào, đó là nguồn hàng cho thương nghiệp, tạo khả năng cho thủ công nghiệp
có thể thoát ly khỏi nông nghiệp và phát triển mạnh. Mặt khác, việc khai thông hệ thống
thủy lợi, sông ngòi kênh rạch cũng cũng tạo điều kiện cho việc chuyên chở hàng hóa
giữa các vùng trong nước và thuyền bè các nước có thể đến trao đổi buôn bán dễ
dàng. Tuy vậy chính sách trọng nông lại gắn liền với tư tưởng “ức thương”, tư tương
coi nghề nông là nghề gốc “dĩ nông vi bản” và buôn bán là “nghề ngọn” luôn chi phối
tư tưởng của tầng lớp thống trị và nhân dân. Vì vậy trong các chính sách phát triển
kinh tế xã hội của giai cấp phong kiến luôn lấy nghề nông làm trọng và hết sức hạn chế
ngoại thương. Nguyên do là vì kinh tế phong kiến dựa trên cơ sở sản xuất nông nghiệp
là chủ yếu. Sự vững mạnh của chế độ phong kiến là ở chỗ giai cấp thống trị có duy trì
được tình trạng nông dân phụ thuộc vào ruộng đất để chúng tiến hành bóc lột tô. Nếu
như kinh tế hàng hóa phát triển lớp thương nhân mạnh lên thì đối với chúng có hai điều
tai hại: một là số thương nhân sẽ rời bỏ ruộng đất mà chuyên làm nghề thủ công hay
buôn bán, như vậy mức tô của phong kiến sẽ không được đảm bảo. Hai là, lớp thương
nhân lớn mạnh lên sẽ bóc lột nông dân và thợ thủ công làm giảm “thu hoạch” của giai
cấp phong kiến. Nên giai cấp phong kiến chỉ muốn kinh tế hàng hóa phát triển trong
chừng mực có thể thỏa mãn nhu cầu mua hàng của chúng. Còn nếu như phát triển quá
mức độ ấy đến chỗ trở thành một thực thể chi phối mọi quan hệ sản xuất và phân phối
trong nền kinh tế toàn quốc thì sẽ bị giai cấp thống trị phản đối và chống lại. Ngoài ra
về mặt chính trị thì nếu như quan hệ thương phẩm hóa tệ phát triển sẽ làm đảo lộn cái
trật tự “quốc quân thần, gia phụ tử”, cái trật tự dựa trên cơ sở kinh tế tự cấp, tự túc, dựa
trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trật tự và ổn định. Đó là chưa kể nếu kinh tế hàng
hóa phát triển thì dân số ở nông thôn sẽ không thể nào ổn định được vì nông dân hoặc
bị phá sản hoặc thường xuyên tham gia vào quan hệ thương phẩm hóa tệ, hoặc bỏ ra
thành thị làm nghề thủ công…như thế thì sẽ không đảm bảo cho nhà nước nguồn nhân
công làm các công việc tạp dịch khác. Và nhất là vì lý do an ninh đất nước, Nhà nước
lo sợ bọn gián điệp đội lốt thương nhân đến buôn bán để do thám tình hình trong nước.
Vì vậy chính sách “bế quan tỏa cảng” trở thành chính sách xuyên suốt các triều đại
phong kiến nhất là từ thời Lê sơ trở đi.”
Đào Thị Phương Huyền – Luận văn tốt nghiệp trường ĐH Sư Phạm TP. Hồ Chí
Minh: Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XI-XVIII – GVHD: TS. Trần Thị
Thanh Thanh - Trang 21 - Năm 2009.
“Nhìn chung, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, từ thời Lý- Trần
tầng lớp thương nhân Việt Nam đã ra đời. “Trong xã hội có nhiều loại người tham gia
buôn bán nhưng tựu chung lại có hai tầng lớp: Tầng lớp trên bao gồm vua, quan lại, quý
tộc, địa chủ phong kiến và tầng lớp dưới gồm có những người sản xuất nhỏ - nông dân,
thợ thủ công, dân nghèo thành thị. Cả hai loại này tham gia buôn bán đều nhằm mục
đích để tăng thu nhập. Mục đích của họ giống nhau nhưng điều kiện, cách thức tiến
hành khác nhau. Tầng lớp trên vừa có uy quyền, vừa có của cải. Đó là những điều kiện
thuận lợi để họ tham gia buôn bán lớn và dùng những thủ đoạn kinh doanh. Việc buôn
bán lớn với nhà Tống ở “bạc dịch trường” Khâm châu thời Lý là một ví dụ nếu lái
buôn nước ta không thuộc tầng lớp có thế lực thì nhà nước không ưu tiên can thiệp tới
mức cứ mỗi lần buôn là mỗi lần nhà nước gửi thông điệp và đã ba lần cử quan lại sang
nhà Tống thử lại cân
10
. Nếu không phải là nhà buôn giàu có, vốn liếng nhiều thì không
thể “cầm vững giá lâu” khi mà lái buôn “người Tống thường gặng giá. Họ sai người
nhà làm nhà ở, buôn bán lặt vặt để tự cấp, rồi họ ở đó mãi, cứ ngâm giá cho người ta
10
Nguyễn Quang Ngọc. Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, Chương
t
r
ì
nh
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007, trang 63-64.
mỏi mệt…”
11
. Nếu lái buôn nước ta không phải là người có uy quyền thì không thể
dùng thủ đoạn “đúc lẫn đồng vào vàng bạc” để đối phó với việc nhà Tống bán thuốc
giả (chắc là thuốc bắc?).

Một ví dụ tiêu biểu nữa đó là trường hợp buôn nón Ma Lôi của
người nhà Nhân Huệ Vương Khánh Dư thời Trần: “Khi Khánh Dư mới đến trấn giữ
Vân Đồn tục ở đấy làm nghề buôn bán sinh nhai, ăn uống, y phục đều trông vào khách
buôn phương Bắc, điểm duyệt các trang hạ lệnh rằng: Quân đóng ở Vân Đồn là để ngăn
giữ giặc Hồ, không nên đội nón của phương Bắc, trong khi vội vàng khó lòng phân biệt;
nên đội nón Ma Lôi ai trái thế tất phải phạt (Ma Lôi là tên một hương ở Hồng-lộ, làng
này khéo nghề đan cật tre làm nón, cho nên lấy tên làng làm tên nón). Trước đó Khánh
Dư sai người nhà mua nón Ma Lôi chở thuyền đến đậu ở cảng rồi. Lệnh đã hạ, ông còn
sai người ngầm bảo người ở trang rằng: “Hôm nọ thấy ở trước vùng biển có thuyền
chở nón Ma Lôi đậu”. Do đấy người trong trang nối gót nhau tranh mua nón, bắt đầu
mua mỗi cái nón không quá một tiền, đến sau giá cao bán một cái nón một tấm vải, thu
được số vải đến hàng nghìn tấm”
12
. Qua đây ta có thể lưu ý hai điểm: Thứ nhất, nếu
Khánh Dư chỉ dùng tới mánh lới con buôn mà không có uy quyền của vị phó tướng trấn
giữ Vân Đồn thì chắc chắn việc buôn nón Ma Lôi không thực hiện được. Thứ hai, nếu
không phải là người nhà của hoàng tộc thì sẽ không đủ vốn để thực hiện một chuyến
buôn lớn như vậy. Tuy vậy, nghề buôn vẫn chưa phải là một nghề hấp dẫn nhất đối với
tầng lớp trên. Và chưa có một trường hợp nào trong số họ từ bỏ “nghề “ làm quan, điền
trang, thái ấp, trang trại, dốc toàn bộ tài sản để theo nghề buôn. Như Trần Khánh Dư
can tội thông dâm với công chúa Thiên Thụy con dâu Trần Quốc Tuấn, nên bị “cách hết
quan tước, tịch thu tài sản không để lại một tí
gì”
13

nên phải đi buôn than, nhưng rồi
ông lại dễ dàng từ bỏ nó để trở lại với con đường danh vọng. Như vậy, nghề buôn
11
Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Nxb Sông Nhị, ,Hà Nội, 1949, trang 107
.
12
Theo Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư (tập 2), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967, trang
60-61
13
Theo Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư (tập 2),Sđd, trang 48
.
đối với tầng lớp trên tuy có cần thiết, có hấp dẫn nhưng chưa đến mức trở thành nghề
riêng, nghề chính của họ. Hệ quả của nó là trong xã hội vẫn chưa xuất hiện tầng lớp
thương nhân chuyên nghiệp. Những trường hợp như buôn với nhà Tống thời Lý, buôn
than, buôn nón Ma Lôi thời Trần chỉ có thể hiểu được đó là những người buôn bán lớn -
đại thương chứ chưa phải là tầng lớp đại thương. Tóm lai, tầng lớp trên có điều kiện
làm nghề buôn bán nhất nhưng lại không chịu buôn bán đến nơi đến chốn đó là chưa kể
đến việc họ còn dùng đặc quyền để lũng đoạn thị trường bằng cách mua trưng bán ép,
chặn mối cướp lợi nguồn hàng…Đối với tầng lớp dưới, cũng giống như tầng lớp trên
nghề buôn đối với họ cũng chỉ là nghề phụ. Nông dân chỉ tranh thủ lúc công việc nhà
nông rỗi rãi để đi buôn, buôn bất cứ thứ gì, loại hàng nào, miễn sao phù hợp với số vốn
quá ít ỏi của mình. Những loại buôn này chỉ có thể gọi là hoạt động buôn bán chứ chưa
thể gọi là nghề buôn. Đối với người nông dân ước mơ chính đáng của họ vẫn là có được
đám ruộng riêng để cày cấy trước khi nhà nước cho phép mua ruộng công làm ruộng tư
thì họ chỉ cần tiền để nộp thuế. Sau đó mới dành dụm thêm để cố tậu lấy đám ruộng.
Còn thợ thủ công và dân nghèo thành thị làm nghề buôn cũng không hơn gì mấy.
Chồng sản xuất, vợ bán sản phẩm, trong nhà sản xuất, ngoài cửa là cửa hàng. Tiền lãi
thu được chắc chỉ đủ dùng để tái sản xuất giản đơn và nộp thuế thân khi nhà nước yêu
cầu.
Như vậy, trong xã hội nước ta thời bấy giờ chủ yếu vẫn là những người sản
xuất nhỏ với lối buôn bán nhỏ. Nguyên nhân là do sự phân hóa giai cấp không thể xảy
ra trước, trong và sau khi chế độ tư hữu về ruộng đất được xác lập. Trong tầng lớp
những người buôn bán nhỏ này sẽ có những người giàu lên và những kẻ nghèo đi.
Nhưng sự giàu lên và nghèo đi chỉ ở mức độ nào đó. Vì sự phân hóa giai cấp thời bâý
giờ chưa thật là sâu sắc, triệt để. Số người giàu có lớn đó không có thế lực nhưng lại có
số vốn tương đối. Họ đã tham gia buôn bán tích cực và là thành phần chính làm
cho nội thương phát triển mạnh mẽ
14
. Nhưng việc buôn bán lớn phần nhiều lại thuộc về
14
Theo Phạm Văn Kính, Bộ mặt thương nghiệp Việt Nam thời Lý-Trần, T/C Chí nghiên cứu lịch sử, số
6, 1979, trang 42
.
ngoại thương thì loại thương nhân thuộc tầng lớp dưới không thể đảm đương được. Vì
vậy, tầng lớp có thể đảm nhận việc buôn bán trong hoạt động ngoại thương là số
thương nhân trung lưu nhưng tiếc thay số thương nhân này lại chưa nhiều, chưa
chuyên nghiệp nên đã hạn chế sự phát triển của nền ngoại thương nước nhà

15
T ự u chu n g l ại ta có t h ể đi đ ến k ết luận, t ầng l ớ p th ư ơ n g nhân tro n g xã
h ội pho n g k iến- n h ữ n g n gư ờ i g iữ v ai trò chính tro n g h o ạ t động th ư ơ n g n g h i ệp l ại
có nh ữ n g b i ểu hiện cản trở sự phát tri ể n của t h ư ơ n g nh i ệp. T ầng l ớ p t h ư ơ n g nhân
tuy đã hình t h ành nh ư n g c h ư a l à m g i ả m sút s ứ c lao đ ộ n g tro n g s ản xuất n ô n g
n g h i ệ p đ ể ảnh h ư ở ng đ ế n địa tô pho n g k i ến v à c h ư a nh i ều t ớ i m ứ c để c ó t h ể đánh
th u ế l à m tă n g th ê m cho q u ố c k hố v à đ ủ l ớ n m ạnh để c ó t h ể đ ả m đ ư ơ ng v ai trò
chính tro n g h o ạt đ ộ n g n g o ại t h ư ơ n g n ư ớ c ta t h ờ i b ấy g i ờ . ”
Đào Thị Phương Huyền – Luận văn tốt nghiệp trường ĐH Sư Phạm TP. Hồ Chí
Minh: Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XI-XVIII – GVHD: TS. Trần Thị
Thanh Thanh - Trang 25-27 - Năm 2009.
“*Những nguyên nhân làm cho nền kinh tế

hàng hóa ở nước ta chậm phát
triển:
“Sự tồn tại của nghề phụ trong nông nghiệp có thể coi là nguyên nhân trực
tiếp và chủ yếu thứ nhất kìm hãm công thương nghiệp phát triển. Như đã đề cập ở trên
kinh tế hàng hóa Việt Nam hình thành trong giai đoạn Lý-Trần không phải do sức sản
xuất nông nghiệp phát triển, thành thị, nông thôn có sự phân công sản xuất như ở Tây
Âu. Mà nguyên nhân trực tiếp lại là do tác động của chế độ tư hữu về ruộng đất và do
tác động của hình thức tô đơn giản. Do chỗ kinh tế hàng hóa xuất hiện trong lúc mà
sức sản xuất nông nghiệp còn thấp chưa đủ khả năng nuôi sống thành thị cho nên
người thợ thủ công vẫn không giám thoát ly nông nghiệp, thoát ly nông thôn. Người
nông dân vẫn duy trì nghề phụ của mình để tự cung, tự cấp. Họ không dám rời bỏ ruộng
15
Theo Phạm Văn Kính, Bộ mặt thương nghiệp Việt Nam thời Lý-Trần, T/C Chí nghiên cứu lịch
sử, số
6, 1979, trang 42
.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét