Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sáng tác văn học có hai kiểu chính là hiện thực và lãng mạn. Bêlinxki từng đề
nghị hai kiểu sáng tác này là kiểu sáng tác tái hiện và kiểu sáng tác tái tạo. Kiểu sáng
tác tái tạo thiên về bộc lộ những yếu tố chủ quan hơn là phản ánh thế giới khách
quan, bày tỏ lý tưởng hơn là mô tả thực tại. Kiểu sáng tác tái hiện lại quan tâm trước
hết đến mảnh đất thực tại và luôn tôn trọng sự th
ực khách quan, mô tả cuộc sống
như nó vốn có hơn là cần có. Cả hai kiểu sáng tác ấy đều có vẻ đẹp riêng và không ít
khi cùng hiện diện trong từng tác phẩm cụ thể.
Tuy nhiên, khi đến với văn chương, con người mong muốn làm giàu cho
mình bằng một thế giới của những ước mơ, mộng tưởng, nhưng vẫn không thôi tìm
kiếm ở đó bóng dáng của thế giới hiện tồn. Hơn nữa, nh
ững ước mơ, hoài bão dù
bay cao, bay xa đến đâu, vẫn thoát thai từ mảnh đất hiện thực; những niềm vui, nỗi
buồn của thế giới tâm hồn dù phức tạp đến đâu cũng bắt nguồn và được giải thích
bằng hiện thực. Chính vì vậy, chất lượng phản ánh cuộc sống, giá trị hiện thực của
tác phẩm vẫn luôn là những vấn đề được đặc biệ
t quan tâm. Người ta có thể tìm thấy
điều này nhiều nhất ở chủ nghĩa hiện thực, một trào lưu, một phương pháp sáng tác
ra đời vào nửa đầu thế kỷ XIX, được xem là phát huy cao độ nhất kiểu sáng tác tái
hiện. Nếu xem kiểu sáng tác tái hiện là một dòng sông, giá trị hiện thực là chất phù
sa của dòng sông ấy, thì chủ nghĩa hiện thực chính là khúc sông chảy xiết và chuyên
chở nhiều phù sa nhất.
Trong tiến trình văn họ
c, chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu, một phương
pháp sáng tác quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy nghệ thuật của
con người. Phát huy những điểm mạnh, đồng thời khắc phục những hạn chế của các
trào lưu, phương pháp xuất hiện trước đó, chủ nghĩa hiện thực đã kết tinh được
truyền thống văn học và tinh th
ần thời đại. Trong giai đoạn cực thịnh của mình, chủ
nghĩa hiện thực đã đóng góp cho kho tàng văn học thế giới biết bao tác phẩm, với
4
không ít những kiệt tác, thể hiện chân thực và sâu sắc thế giới khách quan cũng như
tâm hồn con người. Cuối thế kỷ XIX, mặc dù có chiều hướng suy thoái thành chủ
nghĩa tự nhiên và bị lấn át bởi một số trào lưu văn học hiện đại khác, chủ nghĩa hiện
thực vẫn khẳng định được sức sống của mình. Sang thế kỷ XX, nhiều biến thể của
ch
ủ nghĩa hiện thực như chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo, chủ
nghĩa hiện thực cấu trúc, chủ nghĩa hiện thực tâm lý,… đã ra đời, cho thấy đây là
một hiện tượng không ngừng vận động và phát triển.
Vì những lẽ đó, chủ nghĩa hiện thực luôn chiếm một vị trí đáng kể trong lý
luậ
n văn học. Các nền lý luận văn học lớn trên thế giới đều dành sự quan tâm đặc
biệt cho chủ nghĩa hiện thực. Tính đến nay, chủ nghĩa hiện thực đã ra đời gần 2 thế
kỷ, nhưng vấn đề này vẫn gợi cảm hứng cho các nhà lý luận trong những công trình
nghiên cứu cũng như trong các cuộc trao đổi, tranh luận. Tình hình nghiên cứu sôi
động trên thế giới thời gian qua không cho phép các nhà nghiên cứu Vi
ệt Nam xem
đây như một cái gì đã hoàn tất, mà phải liên tục nhận thức lại vấn đề để có được một
cái nhìn sâu sắc, toàn diện và tiến bộ về chủ nghĩa hiện thực. Từ năm 1975 đến nay,
xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi quan trọng. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu
lý luận nói chung và chủ nghĩa hiện thực nói riêng cũng có những dấu hiệu mới.
Nghiên cứu “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ
1975 đến nay” là một cơ hội để chúng ta nhận diện, đánh giá vấn đề lý luận không
mới này trong điều kiện, hoàn cảnh xã hội mới.
2. Lịch sử vấn đề:
Từ khi xuất hiện trong lý luận văn học Việt Nam đến nay, chủ nghĩa hiện
thự
c luôn là một vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu. Được
giới thiệu trong nhiều công trình dịch thuật, có mặt trong những bộ giáo trình sử
dụng chung cho cả nước, xuất hiện trên nhiều tạp chí, tờ báo quan trọng, trong các
tập tiểu luận phê bình được đánh giá cao, là tâm điểm của nhiều cuộc tranh luận văn
học, chủ nghĩa hiện thực đã và
đang là một trong những vấn đề quan yếu của lý luận
văn học Việt Nam. Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh về tình hình nghiên cứu chủ
nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam lại chưa được một công trình nào
5
quan tâm một cách toàn diện. Đáng kể nhất có thể kể đến là hai bài viết Một chặng
đường phát triển của việc biên soạn giáo trình lý luận văn học của Nguyễn Phúc
(trích trong Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1945 – 1995) do Hữu Thỉnh chủ biên
(nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1997) và Về việc biên soạn giáo trình lý luận bậc đại
học ở ta năm mươi năm qua của Nguyễ
n Ngọc Thiện (Tạp chí Nghiên cứu văn học
số 5/2006). Hai bài viết này đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn chung về công
việc biên soạn giáo trình lý luận văn học Việt Nam 50 năm qua, trong đó có chủ
nghĩa hiện thực. Song, lý luận về chủ nghĩa hiện thực trong các chuyên khảo, tiểu
luận từ trước đến nay lại chưa được tổng kết, đánh giá.
Trong tình hình nghiên cứu chung đó, đáng mừng là việc khái quát tình hình
nghiên c
ứu lý luận văn học từ 1975 đến nay có được quan tâm hơn. Trong cuốn Văn
học Việt Nam sau 1975, Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (nxb. Giáo dục,
2006) do Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn đồng chủ biên, phần Những vấn đề
chung, các tác giả đã tập hợp các bài viết của những nhà nghiên cứu tên tuổi Việt
Nam như Phương Lựu, La Khắc Hòa, Nguyễn Nghĩa Trọng, Nguyễn Đăng Mạ
nh,
Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Long,…Với những bài viết như Những vấn đề cơ
bản đang đặt ra trong các cuộc tranh luận của giới văn học hiện nay, Ba mươi năm
lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học – thành tựu và suy ngẫm, Những trăn trở tiến
bước của lý luận văn học giai đoạn 1975 – 1985, Văn học Việt Nam trước và sau
1975 – nhìn t
ừ yêu cầu phản ánh hiện thực, Sự phát triển của lý luận – phê bình văn
học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và từ sau 1975 đến nay,… các nhà nghiên cứu đã
cung cấp cho chúng ta những tư liệu về tình hình xã hội sau năm 1975 cũng như vai
trò, diện mạo của lý luận văn học trong giai đoạn đó. Trong các ý kiến ấy, chúng ta
có thể nhận ra những ý kiến về vấn đề mối quan h
ệ giữa văn học và hiện thực cũng
như vị trí của chủ nghĩa hiện thực.
Sau thời kỳ đổi mới, tính từ Đại hội Đảng lần thứ VI tháng 12 năm 1986,
việc đánh giá tình hình nghiên cứu lý luận nói chung và chủ nghĩa hiện thực nói
riêng được quan tâm nhiều hơn. Với cuốn Trao đổi ý kiến - Mấy vấn đề lý luận văn
nghệ trong sự nghiệp đổi mới (Nxb. Sự thật, 1991), Hà Minh Đức đã tập hợp các
6
bài viết về văn nghệ trong quá trình đổi mới. Những bài viết như Đổi mới và quy
luật của Phan Cự Đệ, Văn học trên con đường đổi mới của Nguyễn Văn Hạnh, Đôi
nét về một tư duy văn học đang hình thành của Nguyên Ngọc, Góp một cách nhìn
tình hình văn nghệ hiện nay của Ngô Thảo, Đôi điều về sách văn học hôm nay của
Vũ Tú Nam,…đã bước đầu đánh giá về những ưu, nhược của văn nghệ ta trên con
đường đổi mới. Tương tự như vậy, những bài viết như Lý luận trước yêu cầu đổi
mới và phát triển của Phan Trọng Thưởng (Tạp chí Nghiên cứu văn học số
12/2004), Mấy ghi nhận về thành tựu của lý luận văn học trong thời kỳ đổ
i mới của
Nguyễn Duy Bắc (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1/2005) cũng không ngoài nội
dung đó. Có điều, những bài viết này chủ yếu nhận định về tình hình nghiên cứu
chung hơn là tình hình nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực. Chỉ với những bài
viết như Suy nghĩ và kiến nghị xung quanh vấn đề đổi mới lý luận văn học của
Ph
ạm Vĩnh Cư (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12/2004), Suy nghĩ về một vài
hướng tìm tòi đổi mới trong văn học của Hà Minh Đức, (Tạp chí Nghiên cứu văn
học số 4/2006), những suy nghĩ về tình hình nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực mới
được đề cập. Đặc biệt, trong công trình Về một số vấn đề lý luận văn nghệ cơ bản
đang
được tranh luận qua công cuộc đổi mới (1987 – 1992), vấn đề được trình bày
tập trung hơn. Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Lê Bá Hán làm chủ
nhiệm, hoàn thành năm 1993. Công trình này đã dành chương 1 để bàn về vấn đề
văn học phản ánh hiện thực. Các tác giả Trần Đình Sử và Lê Hồng Vân sau khi lược
thuật các ý kiến khác nhau, đã đưa ra nhận định của mình về vấn đề này. Tuy nhiên,
công trình này cũng chỉ tập trung vào tình hình nghiên cứu vấn đề văn học phản ánh
hiện thực chứ không phải toàn bộ tình hình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực.
Như vậy, có thể nói, nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn
học ở Việt Nam từ 1975 đến nay là một công việc chưa được đầu tư thực hiện một
cách hệ thống, toàn diện. B
ức tranh toàn cảnh về vấn đề này đang chờ đợi được
phác vẽ nên. Bức tranh ấy sẽ giúp chúng ta thấy được mình đang ở đâu để có hướng
đi đúng đắn trong hành trình phía trước.
7
3. Mục đích nghiên cứu:
Là một vấn đề có thâm niên trong lý luận văn học thế giới, nhưng chủ nghĩa
hiện thực mới có mặt trong lý luận văn học Việt Nam khoảng 50 năm trở lại đây.
Trong thời gian này, cái nhìn về chủ nghĩa hiện thực không hề đứng yên, mà luôn có
sự vận động, thay đổi, đặc biệt là từ năm 1975 đến nay. Nghiên cứu “Vấn đề chủ
nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay”, người viết
luận văn này muốn tìm hiểu xem giới nghiên cứu Việt Nam đã tiếp nhận và nghiên
cứu như thế nào về chủ nghĩa hiện thực, trước là để nắm bắt vấn đề chủ nghĩa hiện
thực trong giai đoạn mới, sau là để đánh giá những đóng góp cũ
ng như những hạn
chế của giới nghiên cứu Việt Nam trong thời gian qua trong việc nghiên cứu một
vấn đề lý luận nói riêng và xây dựng, phát triển lý luận văn học nói chung.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này, người viết chỉ quan tâm đến vấn đề chủ nghĩa hiện thực
trong lý luận văn học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Các trào lưu, trường
phái, phương pháp sáng tác khác nếu
được nhắc đến chỉ đóng vai trò là một yếu tố
tương tác, soi chiếu để làm rõ thêm vấn đề. Người viết cũng không đi sâu nghiên
cứu chủ nghĩa hiện thực thể hiện ở những tác giả và tác phẩm cụ thể mà chủ yếu
khai thác những quan niệm, những bàn luận về chủ nghĩa hiện thực. Để thực hiện
công việc đó, người viết sẽ
tiến hành các thao tác nghiên cứu trên cơ sở dữ liệu là
các bộ giáo trình, các tập tiểu luận, phê bình, chuyên khảo của các tác giả Việt Nam
có liên quan đến vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong giai đoạn từ 1975 đến nay. Bên
cạnh đó, người viết cũng sử dụng những công trình dịch thuật từ lý luận văn học
nước ngoài được giới thiệu ở Việt Nam từ 1975 đến nay, với t
ư cách là kết quả của
việc tiếp nhận và giới thiệu chủ nghĩa hiện thực của các nhà nghiên cứu Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Thực hiện luận văn này, chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
Phương pháp lịch sử: tìm hiểu bối cảnh xã hội Việt Nam sau năm 1975 để
thấy được sự tác động của hoàn cảnh lịch sử đối vớ
i các nhà nghiên cứu, trên cơ sở
đó, tìm hiểu tình hình nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở
8
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử từ 1975 đến nay, nhằm làm rõ sự vận động và phát
triển của chủ nghĩa hiện thực.
Phương pháp hệ thống: hệ thống hóa các quan điểm, ý kiến khác nhau về
chủ nghĩa hiện thực thành những hướng nghiên cứu, những vấn đề nhất định để tiện
theo dõi và đánh giá.
Phương pháp so sánh: so sánh chủ nghĩa hiện thực vớ
i chủ nghĩa lãng mạn,
chủ nghĩa tự nhiên,…, để có cái nhìn khách quan và đúng đắn về chủ nghĩa hiện
thực; so sánh các giáo trình lý luận văn học về chủ nghĩa hiện thực với nhau để tìm
điểm giống và khác nhau của các nhà lý luận khi nghiên cứu vấn đề này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý lu
ận
văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay” giúp chúng ta có cái nhìn lịch sử đối với một
vấn đề lý luận văn học, nhìn thấy sự vận động của một lý thuyết đã được viết nên
cách đây gần hai thế kỷ. Sự vận động ấy xuất phát từ thực tế nghiên cứu và đặc biệt
là thực tế sáng tác văn học. Vì vậy, công việc này c
ũng thể hiện được mối quan hệ
gắn bó giữa lý luận với thực tiễn, nhìn thấy tính thực tiễn và tiến bộ của lý luận. Hơn
nữa, thực hiện đề tài này chính là đã quán triệt tinh thần của nguyên lý tính hệ thống.
Lý luận văn học Việt Nam từ 1975 đến nay là một bộ phận của lý luận văn học Việt
Nam, lý luận văn học ở Việ
t Nam là một bộ phận của lý luận văn học thế giới. Tìm
hiểu cái bộ phận chính là góp phần tìm hiểu cái toàn thể. Hiểu biết chủ nghĩa hiện
thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay cũng là con đường dẫn đến
hiểu biết chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học thế giới.
Ý nghĩa thực tiễn: Nền lý luậ
n văn học Việt Nam còn khá non trẻ so với lý
luận văn học thế giới. Thời gian từ 1975 đến nay đã cho thấy sự nỗ lực vươn lên của
lý luận văn học Việt Nam để bắt kịp với sự tiến bộ chung. Kịp thời ghi nhận những
thành tựu cũng như những hạn chế của sự nỗ lực đó sẽ giúp cho lý luận vă
n học Việt
Nam rút ngắn khoảng cách với các nền lý luận văn học tiên tiến. Trong lý luận văn
học Việt Nam, chủ nghĩa hiện thực là một vấn đề có tính chất quan trọng hàng đầu.
Những ý kiến, đánh giá mới đây về chủ nghĩa hiện thực cần được xem xét kỹ lưỡng
9
để nắm bắt được quan niệm của giới nghiên cứu trong giai đoạn mới về vấn đề này.
Thực tiễn sáng tác hiện nay ngày càng phong phú và phức tạp, kết quả đánh giá quá
trình đổi mới lý luận thời gian qua của luận văn sẽ giúp cho việc tiếp nhận tác phẩm
văn học dễ dàng và hiệu quả hơn.
7. Cấu trúc của luận văn:
Luận văn gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Các chương:
Chương 1: Tình hình nghiên cứu chung về vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong
lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
Chương 2: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong các giáo trình lý luận văn học
Việt Nam từ 1975 đến nay
Chương 3: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong các tiểu luận, chuyên khảo về lý
luận văn họ
c ở Việt Nam từ 1975 đến nay
Phần kết luận
10
Chương 1
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ VẤN ĐỀ
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG LÝ LUẬN VĂN HỌC
Ở VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY
1.1. Cơ sở xã hội và tư tưởng:
1.1.1. Cơ sở xã hội:
Từ xưa đến nay, như đã thành một quy luật, hễ lịch sử có sự thay đổi thì
trong văn học nhất định cũng có những đổi thay. Chứng kiến sức ảnh hưởng lớn
lao của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại đối với văn học dân tộc chưa lâu, nay,
chúng ta lại chứng kiến thêm m
ột lần nữa sự rúng động ấy trong văn học sau Đại
thắng mùa xuân năm 1975. Hãy bắt đầu sự thay đổi ấy từ chính thời cuộc. Trong
cuốn “Một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy ngữ văn ở
trường THPT”, tình hình xã hội ấy đã được nhận định như sau: “Cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ th
ắng lợi, đất nước mở sang trang sử mới. Từ sau năm
1975, đất nước từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, cuộc sống hiện ra với tất
cả mặt phức tạp vốn có của nó. Đây là thời kỳ giao thoa giữa cái mới và cái cũ.
Cái cũ vẫn còn tồn tại, cái mới cũng chỉ vừa manh nha. Cả hai yếu tố thuận và
nghịch của đời sống kinh tế - xã hộ
i đều tác động đến văn học. Những khó khăn
và khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 70 đầu những năm 80, tính
chất phức tạp và sự chi phối của kinh tế thị trường đẩy tới sự phân cực giữa
trắng đen, thiện ác, tốt xấu” [100, tr.5]. Có thể nói, đó mới chỉ là một nhận định
khái quát về tình hình xã hội sau khi hòa bình lặp lại. Thự
c tế phức tạp hơn
nhiều. Vừa ngất ngây trong men chiến thắng bước ra, nhân dân ta đã phải đối
mặt ngay với bao khó khăn thử thách trước mắt. Đất nước bị chiến tranh tàn phá
11
nặng nề, những tàn dư của chế độ cũ chưa thể xóa sạch trong một ngày một
buổi, nhiều thế lực phản động không ngừng chống phá, chỗ dựa vững chãi cho
đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không còn sau sự sụp đổ của
Liên Xô, nền kinh tế bị kiệt quệ và đứng trước nguy cơ khủng hoảng trầm trọng,
nhiề
u chủ trương, chính sách sai lầm làm giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà
nước,… Là chủ thể của một môi trường phức tạp như vậy, con người chắc hẳn
sẽ có sự phân hóa, đặc biệt là sự phân hóa từ bên trong mỗi cá nhân. Nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã nhận định khái quát về lịch sử của tâm hồn con người
trong giai đoạn này như sau: “Thời kỳ này diễn ra một cuộc đối chứ
ng giữa
nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng
và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi con người”.
Tuy nhiên, cuộc sống xã hội bên ngoài và cuộc sống âm thầm bên trong
mỗi con người càng phức tạp bao nhiêu thì lại càng có lợi cho văn học bấy
nhiêu, bởi việc mở rộng đề tài bao giờ cũng đem lại sự phong phú, đa dạng về
phong cách. Say sưa với mảnh đấ
t màu mỡ, trong Gặp gỡ cuối năm, nhà văn
Nguyễn Khải đã thổ lộ: “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề
bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy dẫy những biến động,
những bất ngờ, mới thật là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ”.
Một khi những người cầm bút đã bắt được mạch nguồn cảm hứng thì văn học
nhất định hứa hẹn một vụ mùa bội thu. Nhờ đó, nền văn học của nước nhà có
thêm một sức sống mới. Là người đi trước dẫn đường, đồng thời lại là người đi
sau để đúc rút kinh nghiệm, lý luận văn học do đó cũng sẽ có sự vận mình.
Giành được độc lập, nhân dân ta bắt tay ngay vào củng cố nền hòa bình
vững chắc và ki
ến thiết đất nước. Bên cạnh việc phát huy nội lực, tranh thủ sức
mạnh bên ngoài là một chủ trương mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước
ta. Do vậy, các mối quan hệ với thế giới bên ngoài ngày càng được mở rộng.
Việc đẩy mạnh hội nhập với thế giới ở nhiều lĩnh vực đã tạo điều kiện cho sự
đổi mới văn h
ọc. Trong Góp một cách nhìn tình hình văn nghệ hiện nay, Ngô
Thảo viết: “Đất nước giải phóng đã cho chúng ta thời cơ được giao lưu, tiếp
12
xúc một cách rộng rãi với văn hóa văn nghệ thế giới. [29, tr.135]. Trong xu thế
hội nhập, giao lưu văn hóa nói chung, văn học nói riêng, lý luận văn học cũng có
cơ hội đổi mới. Trong Tác động của lý luận văn học nước ngoài đối với lý luận
văn học Việt Nam, Lộc Phương Thủy đã nhận định: “Cùng những thay đổi có
tính chất cách m
ạng ở Việt Nam vào thời kỳ Đổi mới và tiếp theo là sự sụp đổ
của Liên Xô và các nước Đông Âu, một lần nữa đời sống học thuật nước nhà
bước vào một giai đoạn mới: cởi mở hơn, tầm nhìn được mở rộng hơn. Trong
thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, ngoài các bài giới thiệu hoặc dịch trên các báo
và tạp chí chuyên ngành như Văn nghệ
, Nhà văn, Tạp chí Văn học, Tạp chí
Thông tin KHXH (Viện thông tin KHXH), đặc biệt trên Văn học nước ngoài, bạn
đọc còn có dịp tiếp xúc với nhiều kênh thông tin khác nhau về các trường phái,
trào lưu lý luận văn học nước ngoài” [85, tr.13]. Sách lý luận văn học nhờ đó
cũng tăng về số lượng: “Chỉ trong vài năm đầu thế kỷ XXI, số sách nghiên cứu
các thành tựu lý luận văn học nước ngoài tăng mạnh” [85, tr.14]. Không phải
đợi lâu, hiệu quả của việc đẩy mạnh giao lưu, trao đổi học thuật đã được thể hiện
khá rõ. Theo Lộc Phương Thủy, “trong chục năm cuối thế kỷ XX và vài năm đầu
thế kỷ XXI, đã có một sự chuyển mình đáng khích lệ trong lý luận văn học ở Việt
Nam mà một trong những nguyên nhân có đóng góp tích cực là việc giới thi
ệu
các thành quả lý luận văn học nước ngoài” [85, tr.15].
Từ chỗ đói thông tin, nay độc giả Việt Nam lại được tiếp nhận thông tin
từ nhiều nguồn khác nhau thì việc xử lý thông tin chắc chắn sẽ có phần bối rối.
Trong bài “Tác động của lý luận văn học nước ngoài đối với lý luận văn học
Việt Nam”, Lộc Phương Thủy đã đánh giá: “Trong thực tế, xác định “tinh hoa”
cụ thể là gì thật không phải dễ. Trước đây, trong mấy thập kỷ lý luận văn học
của Việt Nam chịu sự tác động duy nhất và trực tiếp của Liên Xô thì “tinh hoa”
là gì đương nhiên là quá rõ ràng. Nhưng tình hình hiện nay, hiểu những gì được
gọi là “tinh hoa” thật khó khăn. Bởi, hiện nay, việc giới thiệu tư tưởng học thuật
nước ngoài tuy đã có khởi sắc, đã có những g
ợi ý phần nào cho lý luận phê bình
nước nhà, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu” [85, tr.17]. Như vậy, hiệu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét