PHẦN THỨ NHẤT:TỔNG QUAN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
MÔI TRƯỜNG SINH THÁI CẢNH QUAN LƯU VỰC SÔNG CẦU VÀ CÁC VẤN
ĐỀ ĐẶT RA
CHƯƠNG I:KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN LƯU VỰC SÔNG CẦU
I.1. Vị trí địa lý:
Sông Cầu là dòng lớn của hệ thống sông Thái Bình, bắt nguồn từ vùng núi Phia
Đeng (1527m) sường Đông Nam của dãy Pia – bi – óc/Bắc Kạn, Cao Bằng.
Dòng chính sông Cầu chảy qua các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc
Ninh rồi đổ vào sông Thái Bình tại Phả Lại. Ngoài ra còn có nhiều phụ lưu (sông Công,
Nghinh Đu, Cà Lồ…nằm gọn trong địa bàn 6 tỉnh Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái
Nguyên, Hải Dương, Vĩnh Phúc).
Lưu vực sông Cầu nằm trong phạm vi toạ độ địa lý: 21
0
07’ – 22
0
18’ vĩ bắc, 105
0
28’
– 106
0
08’ kinh đông, có tổng diện tích lưc vực là 10530 Km
2
, bao gồm toàn bộ hay phần
lãnh thổ 6 tỉnh và 2 huyện thuộc Hà Nội, (trong đó chính lưu sông Cầu có chiều dài là 288
km và diện tích lưu vực là 6030 Km
2
. Các phụ lưu có tổng chiều dài là 1332 km và diện
tích lưu vực là 3535km
2
).
I.2. Địa hình:
Lưu vực sông Cầu được bao bọc bởi cánh cung sông Gâm ở phía Tây và cánh cung
Ngân Sơn ở phía đông. Ở phía Bắc và Tây bắc có những đỉnh núi cao trên 1000 m (Hoa sen
1525m, Phia Đeng1527m, Pianon 1125m). Ở phía Đông có cánh cung Ngân Sơn với những
đỉnh núi cao trên 700 m (Cóc Xe 1131m, Lung Giang 785m, Khao Khiên 1107m) Phía Tây
có dãy Tam Đảo, có đỉnh Tam Đảo cao 1592m, chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam.
Nhìn chung địa hình lưu vực thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam và có thể
chia ra làm 3 vùng: Thượng lưu, trung lưu và hạ lưu. Vùng thượng lưu từ đầu nguồn đến
Chợ Mới, cao trung bình 300 – 400m, có những đỉnh núi cao 1326 – 1525m, vùng trung lưu
từ Chợ Mới đến thành phố Thái Nguyên, có độ cao trung bình 100 – 200m, hạ lưu từ thác
Huống (Thái Nguyên) đến Phả Lại (Hải Dương) phần lớn có địa hình bằng phẳng, độ cao
khoảng 10 – 25m.
I.3. Đất:
Trong lưu vực có những nhóm đất chính dưới đây:
- Nhóm đất feralit đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch và biến chất. Đây là nhóm
đất tốt, thuận lợi cho sản xuất lâm nghiệp, nhưng trên một nửa diện tích của nhóm đất này
có tầng dày không quá 50 cm.
5
- Nhóm đất feralit đỏ vàng phát triển trên đá macma axit, phân bổ tập trung ở suờn
một dãy núi nằm ở phía tây và nam lưu vực, độ dày tầng đất vào loại trung bình hoặc
mỏng.
- Nhóm đất phát triển trên đá kiềm ( đá vôi, đá bazic). Loại đất phát triển trên đá vôi
(như ở huyện Bạch Thông), đất tốt, thích hợp cho cây trồng nông nghiệp ngắn ngày, giàu
chất dinh dưỡng, độ dày thường sâu, thuận tiện cho cây trồng công nghiệp.
- Nhóm đất phát triển trên phù sa cổ, tập trung ở phần hạ lưu, đất có tầng sâu dày,
nhưng đã bạc màu tập chung ở các huyện Hiệp Hoà, Việt Yên, Sóc Sơn…canh tác nông
nghiệp tốt.
- Nhóm đất trồng lúa phân bố ở các huyện Vĩnh Lạc, Tiên Sơn, Quế Võ, Yên Dũng,
thành phần cơ giới đất thịt nhẹ hay trung bình, dinh dưỡng khá.
I.4. Thảm phủ thực vật
Trong lưu vực có một số loại rừng sau đây:
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới, phân bố ở độ cao dưới 700 m và trên
700 m.
- Ở vùng đồng bằng và trung du còn có những cây trồng nông lâm nghiệp ngắn ngày
hay dài ngày.
Theo điều tra trong những năm 1981 – 1983, diện tích đất trồng rừng ở tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Kạn bằng 130658 ha, chiếm 20,2% diện tích lãnh thổ, trong đó rừng chiếm
19,1%. Ở tỉnh gồm tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc diện tích đất có rừng chiếm 23,4% và tỉnh
Bắc Giang và Bắc Ninh chiếm 12,6%.
Theo số liệu thống kê, đến 1993 diện tích rừng tự nhiên của các tỉnh Bắc Thái, Vĩnh
Phúc và Hà Bắc tương ứng như sau: 126.620 ha, 31.555ha, 54710ha. Diện tích rừng trồng
của 3 tỉnh nói trên tương ứng bằng 3.500 ha, 4.600 ha và 4.300 ha.
Song diện tích rừng bị tàn phá hàng năm cũng khá lớn: thí dụ, năm 1992 ở Bắc Thái
diện tích rừng bị tàn phá là 2.342 ha.
Rừng bị khai thác bừa bãi và đốt phá làm nương rẫy ảnh hưởng lớn đến môi trường
sinh thái, đất bị xói mòn, thoái hoá, nước bị cạn kiệt và lũ lụt khốc liệt hơn, gia tăng nhiều
trong các năm 1999, 2000, 2001.
I.5. Mạng lưới sông suối:
Mạng lưới sông suối trong lưu vực sông Cầu tương đối dày, mật độ mạng lưới sông
(độ dài sông trên một đơn vị diện tích) trong lưu vực biến đổi trong một phạm vi 0,7 – 1,2
km/km
2
. Các nhánh sông chính phân bố tương đối đồng đều dọc theo dòng chính, nhưng
các sông nhánh tương đối lớn đều nằm ở phía hữu ngạn lưu vực như các sông: Chợ Thu,
Đu, Công, Cà Lồ…
6
Trong toàn lưu vực có 68 sông, suối có độ dài từ 10km trở lên với tổng chiều dài
1620 km, trong đó có 13 sông suối có độ dài từ 15km trở lên và 20 sông suối có diện tích
lưu vực lớn hơn 100 km
2
. Trong bảng 1 liệt kê một số đặc trưng hình thái của lưu vực sông
Cầu. Một số sông nhánh tương đối lớn. Cụ thể như sau:
* Sông Chu bắt nguồn từ xã Bảo Linh huyện Định Hoá, chảy theo hướng Tây Bắc –
Đông Nam đến xã Linh Thông lại chuyển hướng Tây Nam – Đông Bắc chảy qua thị trấn
chợ Chu, sau đó từ Tân Dương lại chuyển hướng Tây Bắc – Đông Nam để chảy vào sông
Cầu tại Chợ Mới. Ở hạ lưu thị trấn chợ Chu có thêm sông nhánh tương đối lớn đổ vào sông
Khương (F = 108km
2
), sông Chu có diện tích lưu vực (F = 437km
2
). Từ nguồn đến cửa
sông Đu dài 36,5km, độ cao trung bình 206m, độ dốc 16,2%, mật độ lưới sông 1,30
km/km
2
.
* Sông Nghinh Tường bắt nguồn từ độ cao 550m tại xã Yên Cư huyện Phú Lương,
chảy theo hương tây bắc – đông nam đến xã Cúc Đường huyện Võ Nhai rồi chuyển hướng
đông nam – tây bắc và đổ vào bờ trái sông Cầu tại thượng lưu Lang Hít. Sông Nghinh
Tường dài 46km, độ cao trung bình lưu vực 290m, độ dốc 12.9%, mật độ lưới sông 1.05
km/km
2
, diện tích lưu vực 465 km
2
.
* Sông Đu dài 44.5km, độ cao trung bình lưu vực 129m, độ dốc 13.3%, mật độ lưới
sông 0.94 km/km
2
và diện tích lưu vực 361 km
2
.
* Sông Công bắt nguồn từ độ cao 275m ở xã Thanh Định (huyện Định Hoá), chảy
theo hướng tấy nam đến xã Phú Cường huyện Đại Từ thì chuyển hướng tây bắc-đông nam
đổ vào sông Cầu ở phía bờ phải tại Hương Ninh xã Hợp Thịnh huyện Hiệp Hoà. Sông
Công dài 96 km, độ cao trung bình lưu vực 224m, độ dốc 27.3% mật độ lưới sông 1.2
km/m
2
, diện tích lưu vực 957 km
2
. Từ năm 1972 bắt đầu xây dựng hồ chứa Núi Cốc trên
sông Công, đến năm 1978 thì hoàn thành (có dung tích 210 triệu mét khối và bổ sung
nguồn nước cho sông Cầu, cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của Thái Nguyên, thị xã
sông Công…Tuy nhiên do đập chắn ngăn sông, nên từ 1978 trở đi, hạ lưu sông Cầu (từ hạ
lưu hồ Núi Cốc) đã hoàn toàn mất nguồn từ trung và thượng lưu, dòng sông bị cạn kiệt, và
do đó ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sinh thái ở hạ lưu sông Công…
* Sông Cà Lồ bắt nguồn từ sườn tây bắc của dãy núi Tam Đảo, chảy qua vùng đồng
bằng Vĩnh Phúc rồi đổ vào sông Cầu ở phía phải tại Lương Phú, Bắc Ninh. Sông Cà Lồ dài
89 km, độ cao trung bình của lưu vực là 87m, độ dốc 4,7%, mật độ lưới sông 0.73km/km
2
,
diện tích lưu vực là 88 km
2
. Trong lưu vực sông Cà Lồ có hồ Đại Lải có dung tích
30.5x10
6
m
3
. Hồ Xạ Hương có dung tích 14.4 x 10
6
m
3
.Nước ở hai hồ này dùng để tưới cho
4700 ha ruộng ở Vĩnh Phúc. Đây là phụ lưu quan trọng từ Vĩnh Phúc đổ về, có nhiều nét
đặc thù riêng.
7
CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM KHÍ HẬU, KHÍ TƯỢNG THUỶ VĂN LƯU
VỰC SÔNG CẦU
II.1.Đặc điểm chung
Từ phân tích trên về các nhân tố tham gia cấu thành khí hậu lưu vựu, có thể đi đến
một nhận xét chung là: “Lưu vực sông Cầu có đặc điểm cơ bản của khí hậu nhiệt đới gió
mùa, với nền chung của khí hậu nóng ẩm nhưng có một mùa đông khá lạnh, mưa nhiều và
tập chung vào mùa hè”. Chi tiết hơn có thể nêu ra một số đặc điểm sau:
- Về cơ bản, khí hậu lưu vực thuộc dạng khí hậu nhiệt đới được quyết định bởi chế
độ mặt trời vùng nội chí tuyến, với một nền nhiệt độ khá cao. Ở các vùng thấp (dưới
100m), nhiệt độ trung bình năm đều vượt 21
0
C (là tiêu chuẩn của khí hậu nhiệt đới, Miller-
1965).
- Chế độ gió mùa đã đem lại sự phân hoá mùa khá sâu sắc.Trước hết phải kể đến
một sự hình thành một mùa đông lạnh khác thường với nhiệt độ thấp nhất có thể dưới 0
0
C
ngay trên các vùng thấp phía Bắc của lưu vực. Đó là một dị thường đối với khí hậu nhiệt
đới. Với biên độ của nhiệt độ trung bình năm lên tới 12-13
0
C, hàng năm trên lưu vực đã
hình thành hai mùa nóng, lạnh đối lập nhau rõ rệt. Đối với hầu hết các yếu tố khí hậu khác
nhau như giá, mưa, ẩm…chế độ gió mùa cũng đem lại sự phân hoá mùi khá sâu sắc. Một
mùa mưa tập trung tới trên 80% lượng mưa cả năm vào thời kỳ gió mùa hè, tương phản hẳn
với một mùa ít mưa ứng với thời kỳ gió mùa đông, đây là một nét khá tiêu biểu về phân
mùa khí hậu trên phạm vi lưu vực.
- Khí hậu phân hoá mạnh mẽ theo không gian trên phạm vi của lưu vực. Riêng ở
phần bắc thuộc trung và thượng lưu của lưu vực, địa hình chia cắt mạnh đã đem đến sự
phân hoá sâu sắc đối với chế độ nhiệt. Trên một phạm vi không lớn, nhiệt độ trung bình
tháng cũng như cả năm có thể chênh lệch nhau 10
0
C. Tác động của các dãy và khối núi ở
hai phía lưu vực đã dẫn đến sự phân hoá mạnh mẽ của chế độ mưa, với chênh lệch lượng
mưa hàng năm giữa các khu vực đến 500 – 1000 mm. Khó có thể tìm thấy một đặc trưng
khí hậu nào đồng nhất trên phạm vi toàn lưu vực.
- Chịu tác động chung của một cơ chế gió mùa không thuần nhất của khu vực Đông
Nam Á, khí hậu của lưu vực sông Cầu cũng như cả nước ta có mức độ biến động khá mạnh
mẽ từ năm này qua năm khác. Tính biến động không chỉ đối với giá trị định lượng của các
đặc trưng khí hậu mà cả đối với cấu trúc mùa hàng năm. Sự bắt đầu kết thúc, diễn biến của
mùa nóng lạnh, mùa mưa, mùa bão, mưa giông, mưa phùn… đều có sự thay đổi đáng kể
giữa các năm. Chính đặc trưng dao động này đã tạo ra những dị thường khí hậu và nhiều
năm dị thường này đã dẫn tới thiên tai, gần đây có thêm nhiều thiên tai biến đổi rõ rệt, đột
ngột.
8
- Biến đổi khí hậu cốt lõi là hiện tượng nóng lên toàn cầu đã được khẳng định qua
hàng loạt các kết quả nghiên cứu trên thế giới. Khí hậu Việt Nam cũng đã có những biến
đổi tương tự theo kết quả của thiên nhiên gần đây. Qua khảo sát diễn biến của nhiệt độ ở
một số trạm khí tượng trong gần nửa thế kỷ qua, cho thấy nhiệt độ trên lưu vực đang có xu
hướng tăng lên. Trong đó thập kỷ 90 có tốc độ tăng mạnh nhất vào năm 1998 là năm có
nhiệt độ trung bình cao nhất từ trước tới nay. Điều này cũng phù hợp với những đánh giá
của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) cuối năm 1999. Hệ quả của sự tăng nhiệt toàn cầu
sẽ dẫn tới nhiều thay đổi của khí hậu trái đất. Trong tình hình trên không phải chỉ có nhiệt
độ của lưu vực đã tăng lên mà đối với nhiều yếu tố, hiện tượng khác của lưu vực ít nhiều đã
chịu tác động.
- Các hiện tượng khí tượng cực đoan xảy ra trên lưu vực tập chung chính vào các
nội dung sau:
* Nhiệt độ thấp mùa đông gắn với hiện tượng sương muối, băng giá xảy ra chủ yếu
trong thời kỳ thịnh hành của gió mùa đông bắc.
* Mưa lớn gắn với nhiễu động khí quyển như xoáy thuận nhiệt đới, hội tụ nhiệt đới,
front cực… đẫn đến lũ lụt trên lưu vực xảy ra chủ yếu trong thời kỳ gió mùa Tây Nam.
* Dông sét, lốc xoáy, mưa đá xảy ra rải rác, gây tác hại trên một phạm vi hẹp có tính
cục bộ, song lại có thể xảy ra ở khắp nơi trong suốt thời kỳ gió mùa mùa hè.
II.2. Diễn biến của các yếu tố khí hậu cơ bản và các hiện tượng thời tiết điển
hình.
II.2.1. Gió:
Gió là đặc trưng biểu hiện trước tiên đặc điểm của cơ chế gió mùa. Sự tương phản
của hướng gió thịnh hành giữa các tháng trong năm đã thể hiện sự chuyển đổi của hoàn lưu
chung. Hướng gió thịnh hành Đông Bắc trong các tháng mùa đông thể hiện ảnh hưởng của
luồng gió mùa đông từ phía bắc tới ngược với hướng thịnh hành đông nam thể hiện ảnh
hưởng từ phía nam đi lên cũng như từ phía tây tràn sang sau khi đã đổi hướng khi tới lãnh
thổ Bắc Bộ. Đặc điểm này thấy khá rõ trên các hoa gió của một số trạm thuộc lưu vực như
Thái Nguyên, Tam Đảo, Vĩnh Yên, Bắc Ninh. Tuy nhiên do ảnh hưởng của địa hình các
khu vực thấp nằm trong lưu vực hướng gió thịnh hành có thể bị biến đổi không thể hiện
được đặc điểm trên của hoàn lưu chung trên lưu vực.
Tốc độ gió nói chung khá thấp. Tốc độ gió chung bình năm chỉ khoảng 2-3 m/s.
Riêng những khu vực núi cao, trên các địa hình lồi, thoáng hoặc các hành lang gió tốc độ
gió trung bình có thể tăng lên 4-5 m/s.
Còn những khu vực thung lũng kín tốc độ gió trung bình xuống khá thấp 1-2 m/s
trong đó tần xuất lặng có thể lên tới 40 – 50%.
9
II.2.2. Nhiệt độ:
Nhiệt độ phân hoá khá mạnh mẽ trong lưu vực. Với gradien nhiệt độ trung bình theo
chiều cao địa hình ở khoảng 0.5-0.6
0
C/100m, có thể thấy nhiệt độ trung bình năm ở vùng
thấp (độ cao dưới 100m) ở khoảng 22.5 – 23
0
C, thì ở độ cao 500m sẽ xuống xấp xỉ 20
0
C.
Tương tự như vậy các tháng mùa đông nhiệt độ trung bình ở độ cao 500m sẽ giảm xuống
12-13
0
C; ở 1000m xuống 10
0
C. Ngược lại vào các tháng mùa hè khi lên tới độ cao trên
1000m nhiệt độ sẽ giảm xuông dưới 24
0
C. Điều đó có nghĩa là trên các vành đai núi cao từ
100m trở nên phạm vi lưu vực về cơ bản sẽ không còn tồn tại mùa nóng hàng năm. Ở
những độ cao này hệ sinh thái đã có những thay đổi đáng kể với sự tăng lên đáng kể của
các loài cây lá kim, thịnh hành trong khí hậu lạnh.
Trên các khu vực thấp thuộc lưu vực tập trung chủ yếu ở hạ lưu, mùa nóng (nhiệt độ
trung bình trên 25
0
C) bắt đầu từ khoảng tháng 5 và kết thúc vào cuối tháng 10, kéo dài
khoảng 6 tháng; mùa lạnh (nhiệt độ trung bình dưới 20
0
C) bắt đầu từ khoảng trung tuần
tháng 11 đến trung tuần tháng 3 kéo dài hơn 4 tháng. Thời gian còn lại thuộc các tháng 3-4,
10-11 được coi là thời kỳ chuyển mùa nhiệt hàng năm. Càng lên cao mùa nóng càng co lại
đồng thời mùa lạnh kéo dài thêm. Lên đến khoảng 1000m mùa lạnh đã có thể kéo dài tới 8-
9 tháng, trong khi mùa nóng không còn.
Đối với các đặc trưng cực trị như nhiệt độ cao nhất, nhiệt độ thấp nhất cũng thay đổi
khá lớn trong phạm vi của lưc vực. Ở các khu vực thấp nhất là những nơi có địa hình dạng
lòng chảo kín và sâu nhiệt độ tối cao có thể đạt trên 40
0
C. Số liệu quan trắc trên các trạm
khí tượng (có địa hình thoáng) đều đã đo được nhiệt độ gần 40
0
C. Nhiệt độ tối cao (
0
t:max)
địa hình với quy luật gần tương tự như nhiệt độ trung bình nếu không kể đến ảnh hưởng
của dạng địa hình. Cũng có quy luật diễn biến gần tương tự như các đặc trưng nhiệt vừa
nêu nhưng nhiệt độ tối thấp (
0
t:min) nhạy cảm hơn và phụ thuộc khá nhiều vào dạng địa
hình và mặt đệm. Trên nhiều vùng thấp của lưu vực cũng đã xuất hiện nhiệt độ thấp dưới
0
0
C, và đã xảy ra hiện tượng sương muối và băng giá nhất là phần bắc của lưu vực. Trên
các vùng núi cao nhiệt độ tối thấp dưới 0
0
C hầu như đều có khả năng xuất hiện trong mùa
đông nhưng cũng với xác suất không lớn.
Mưa là đặc trưng có mức độ ổn định thấp cả theo thời gian và không gian. Vì thế
lưới trạm đo mưa cần dày hơn nhiều lần so với trạm khí tượng. Lượng mưa quan hệ mật
thiết với cơ chế hoạt động của gió mùa đặc biệt các nhiễu động khí quyển xảy ra trong cơ
chế hoàn lưu này. Trên lưu vực sông Cầu, lượng mưa hàng năm khá lớn 1500-2700 mm.
Có thể nhận thấy trong phạm vi không lớn của lưu vực đã tồn tại một trung tâm mưa khá
lớn của miền bắc, đó là trung tâm mưa Tam Đảo. Trên mặt hướng phía Đông Nam của dãy
Tam Đảo nhất là phần đỉnh, lượng mưa năm có thể vượt 3000 mm. Vùng mưa lớn này kéo
10
dài về phía Đông sang qua thành phố Thái Nguyên, với lượng mưa năm vượt 2000 mm. Xa
hơn lên phía Bắc, nằm khuất sau cánh cung Ngân Sơn thuộc vùng thung lũng thấp Bắc Cạn,
là một khu vực ít mưa với lượng mưa năm chỉ đạt 1400-1500 mm. Gần đó trên vùng cao
của cành cung này, lượng mưa lại tăng lên khá lớn đạt 1800-2000mm.
Gắn với dông là các lốc xoáy phát triển ở giai đoạn cao điểm của các cơn dông
mạnh. Vòi rồng được coi là lốc xoáy tiêu biểu. Tốc độ gió xảy ra trong các lốc xoáy đã đạt
tới tốc độ rất lớn 35 - 40 m/s trên phạm vi lưu vực. Chưa có đủ thông tin để đánh giá đầy
đủ về hiện tượng này song có thể nhận thấy hầu hết các đợt gió mạnh có tốc độ đạt cấp XI-
XII xuất hiện trên lưu vực đều là do lốc xoáy, vòi rồng gây ra. Gió bão có thể gây ra gió
mạnh tới cấp X-XI nhưng chủ yếu chỉ ảnh hưởng tới phần phía nam lưu vực thuộc khu vực
hạ lưu sông. Mưa đá xảy ra trong những cơn dông phát triển đặc biệt mạnh mẽ. Nó thường
gắn với những nguyên nhân động lực như front cực tràn về nhanh và mạnh, các dạng
thường đứt hoặc hội tụ do quá trình tranh chấp giữa các hệ thống thời tiết khác nhau. Trên
lưu vực đã xảy ra mưa đá ở hầu khắp các nơi tuy số lần không nhiều, tập trung vào thời kỳ
từ tháng 2 đến tháng 5.
II.3.Thủy văn và nguồn nước
II.3.1. Tổng lượng dòng chảy trung bình năm:
- Trên sông Cầu (đến cửa sông):4,50km
3
/năm, trong đó đóng góp của sông Công là
0,8992 km
3
/năm, sông Cà Lồ là 0,880 km
3
/năm (19.5%).
- Mức bảo đảm nước trung bình năm toàn lưu vực sông Cầu vào khoảng 116x10
3
m
3
/km
2
và 2250 m
3
/ người.năm, thấp hơn nhiều so với mức đảm bảo nước trung bình của
toàn lãnh thổ Việt Nam (2500x10
3
m
3
/km
2
và 10.800 m
3
/người.năm).
II.3.2. Chế độ thủy văn:
Mùa mưa trên lưu vực sông Cầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau. Lượng dòng chảy mùa khô chỉ chiếm khoảng 15-20% tổng lượng dòng
chảy năm. Tháng 2 là tháng có lượng dòng chảy nhỏ nhất.
Trong những năm gần đây do rừng đầu nguồn bị chặt phá nên dòng chảy sông suối
đầu nguồn có xu thế cạn kiệt, một số đoạn sa mạc hóa.
II.3.3. Đặc điểm lũ:
- Bão, áp thấp nhiệt đới là loại hình thời tiết gây mưa lũ chính ở lưu vực sông Cầu
với tần suất là 45%, tiết đó là không khí lạnh với tần suất 28.6%.
- Mùa mưa lũ trên lưu vực sông Cầu bắt đầu từ tháng 6 kết thúc vào tháng 9, lũ lớn
thường xuất hiện vào tháng VIII.
- Lưu vực sông Cầu dài và hẹp, có dạng lông chim, nên lũ trên sông chính và sông
nhánh ít trùng nhau. Lũ trên lưu vực sông Cầu lên nhanh và xuống nhanh.
11
- Theo thống kê, thời kỳ 1960 – 1991 trên lưu vực xuất hiện 22 trận lũ lớn, trong đó
có 11 trận đặc biệt lớn (tại Phả Lại Hmax >7m).
- Lũ quét: Những năm gần đây lũ quét xảy ra ngày càng nhiều hơn ở các sông suối
nhỏ thượng nguồn sông Cầu, sông Công. Lũ quét đã gây ra những tổn thất to lớn về người
và tài sản của nhân dân. Một trận lũ quét điển hình trên lưu vực sông Cầu: Đầu nguồn sông
Công (1963), trên sông Ràng (1973), sông Công (1978), Bắc Kạn (2000) và năm 2001 ở
Thái Nguyên và Bắc Kạn.
II.4. Nhu cầu dùng nước trong lưu vực sông Cầu
+ Nước cho sản xuất nông nghiệp:
- Thái Nguyên: tưới cho 20.000 ha, cần khoảng 200x10
6
m
3
/năm.
- Bắc Giang, Bắc Ninh: tưới cho 20.000 ha cần khoảng 200x10
6
m
3
/năm.
+ Nước sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên: 30x10
6
m
3
/năm.
+ Nước cho sản xuất công nghiệp:
- Gang thép Thái Nguyên : 20x10
6
m
3
/năm.
- Khu công nghiệp sông Công: 10x10
6
m
3
/năm.
Tuy tổng lượng nước hàng năm của sông Cầu khá lớn so với nhu Cầu dùng nước,
nhưng do dòng chảy phân bố không đều trong năm, nên trong mùa cạn đã xảy ra thiếu nước
nghiêm trọng ở một số nơi, nhất là vào khoảng tháng 1-3. Theo tính toán sơ bộ, các tháng
này đều thiếu khoảng 30x10
6
m
3
để cung cấp cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở
Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang.
Trong tương lai nhu cầu dùng nước cho sinh hoạt và sản xuất gia tăng nhanh chóng,
thì tình trạng thiếu nước chắc chắn sẽ trầm trọng hơn nhiều nếu không có các biện pháp
khai thác và bảo vệ các nguồn nước sông Cầu một cách hữu hiệu, thế kỷ 21 chắc chắn sẽ
còn lo lắng hơn. Hiện tại vào các tháng mùa kiệt (tháng 1,2,3 nguồn nước đã giảm chỉ còn
1/3 so với mùa kiệt 10 năm trước (18m
3
/sẹc xuống còn 6m
3
/sẹc, điểm đo tại lưu vực tại tại
Thái Nguyên).
Lưu lượng nước thừa thiếu trên lưu vực sông Cầu được tính cho hiện tại và năm
2010 như sau:
Thời kỳ Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4
Hiện tại -0,81 -0,61 7,81 22,41
Năm 2010 -6,70 -6,35 -5,60 -5,30
12
II.5. Hiện trạng mạng lưới khí tượng thuỷ văn
II.5.1. Lưới trạm khí tượng:
Trong lưu vực sông Cầu có 7 trạm khí tượng đang hoạt động. Các trạm này đều nằm
ở các thị trấn, thị xã và thành phố và được thành lập từ thập kỷ 20,30 riêng trạm Hiệp Hoà
(Đức Thắng) từ năm 1959. Tại các trạm khí tượng đều quan trắc các yếu tố khí tượng (bức
xạ, nắng, nhiệt độ, ẩm, không khí, gió…).
II.5.2. Lưới trạm thuỷ văn
Tính cho đến nay lưu vực sông Cầu có 17 trạm thuỷ văn đã và đang hoạt động, trong
đó có 8 trạm cấp III (chỉ có mực nước, nhiệt độ nước), 9 trạm đo lưu lượng nước, 6 trạm đo
nhiệt độ nước, 1 trạm đo hoá học nước sông. Từ đầu thập kỷ 70 đã có nhiều trạm ngừng
hoạt động, trong đó chỉ có 1 trạm (trạm Gia Bẩy) là đầy đủ các yếu tố, 6 trạm còn lại đều
chỉ đo mực nước, 4 trạm đo nhiệt độ nước và cả 7 trạm đều đo mưa.
II.5.3. Lưới trạm đo mưa:
Ngoài các trạm khí tượng và trạm thuỷ văn đều quan trắc mưa ra, hiện nay còn
khoảng 30 trạm đo mưa nhân dân (do UBND xã, hay bưu điện quan trắc).
Hầu hết các trạm đều được thành lập từ cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60. Như vậy
hiện nay trong lưu vực sông Cầu có khoảng 50 trạm quan trắc mưa. Nhìn chung các trạm
đo mưa phân bố tương đối trong khu vực, tuy vậy một số vùng núi còn thưa trạm.
CHƯƠNG III:TÓM TẮT TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI LƯU VỰC
Sáu tỉnh thuộc lưu vực sông Cầu, có diện tích và dân số khá chênh lệch do vị trí địa
lý tự nhiên. Tổng diện tích hơn 16.000 km
2
trong đó diện tích trực tiếp với các dòng sông là
hơn 6.000 km
2
(diện tích Bắc Kạn rộng nhất 4796 km
2
, Thái Nguyên 3567 km
2
, Hải Dương
và Vĩnh Phúc xấp xỉ 1500 Km
2
, Bắc Ninh 797 Km
2
). Dân số 5.773.000 người. Tỉnh rộng
lại ít người ( Bắc Kạn có 292.383 người), Bắc Ninh có mật độ dân cao nhất 987.022
người/797Km
2
. Đây là vùng có điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển đa dạng: Lâm
13
nghiệp, nông nghiệp, công nghiệp, thuỷ sản thương mại và du lịch có truyến thống lâu đời,
có giao thông thuận lợi, thời tiết thuận hoà. Tuy nhiên do dân đông, tập chung ở một số
vùng đô thị chủ yếu, nền kinh tế phát triển không đồng đều. GDP trên đầu người còn thấp,
tỉnh cao nhất gần 500 USD/đầu người/năm (Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương), tính trung
bình 300 USD ( Thái Nguyên, Bắc Giang), có tỉnh mức thu nhập thấp hơn 200 USD (Bắc
Kạn).
Sự phát triển của lưu vực dựa vào 3 thế mạnh chủ yếu:
1. Về tài nguyên rừng và khoáng sản.
2. Về nguồn nước và đất đai canh tác
3. Về sức lao động và sáng tạo của con người, nhưng qua nhiều năm khai thác với
công nghệ lạc hậu, sự tái đầu tư bổ xung chưa tương xứng, nên vẫn chưa tạo được sự phát
triển bột phát trong khi có nhiều ưu đãi. Ngược lại đang xuất hiện hiện tượng cạn kiệt, suy
thoái tài nguyên và môi trường, gây trở ngại cho nhịp độ phát triển. Tình hình trên đang
xuất hiện mâu thuẫn giữa phát triển và bền vững. Dân đông phải phát triển, phải tăng cường
khai thác tài nguyên thiên nhiên, phải tiếp tục đầu tư sản xuất, phải hình thành và phát triển
nhiều đô thị, cụm dân cư, sản xuất nông nghiệp phải đẩy mạnh. Tất cả đã giảm tài nguyên,
giảm độ phù của đất và tăng ô nhiễm khu vực. Hiện trên địa bàn 6 tỉnh có hơn 500 Doanh
nghiệp quốc doanh, khoảng hơn 3 vạn doanh nghiệp dân doanh và tiểu thủ công, làng nghề,
số lượng thành phố, thị xã, thị trấn, thị cứ, cụm dân cư ngày một gia tăng, đòi hỏi vốn đầu
tư về xử lý bảo vệ môi trường, xây dựng hạ tầng văn minh, rất lớn, đang là mối lo của toàn
xã hội, còn việc tái tạo, phục hồi tài nguyên thiên nhiên lại càng khó khăn hơn.
Tuy nhiên các năm gần đây do thiên tai, do phải tiếp xúc với môi trường ô nhiễm dư
luận xã hội đã có phần thức tỉnh và quan tâm, lo ngại. Đã xuất hiện nhiều mô hình bảo vệ
môi trường, phát triển bền vững. Bên cạnh sự lo toan cơm áo hàng ngày đã có nhiều người,
nhiều chính quyền các cấp đã quan tâm đến vấn đề môi trường, gìn giữ tài nguyên thiên
nhiên, trong phát triển chú ý hơn đến bền vững. Song ai cũng cho rằng bảo vệ được môi
trường lưu vực là việc làm quá sức đối với các tỉnh hiện nay, nếu không có sự giúp đỡ của
Chính Phủ.
CHƯƠNG IV:TÌNH HÌNH SUY GIẢM CHẤT LƯỢNG VÀ Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG LƯU VỰC SÔNG CẦU
IV.1. Hiện trạng rừng.
Số liệu thống kê của 2 tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên cho thấy giai đoạn 1986 –
1993, sản lượng khai thác lâm nghiệp bình quân mỗi năm là 65.000 m
3
gỗ tròn, 723 ngàn
tấn củ, và 7,8 ngàn tấn nguyên liệu giấy (cho sản xuất giấy). Rừng tự nhiên trong khu vực
giảm khoảng 1,4 triệu ha, tương ứng trữ lượng gỗ của rừng giảm 1,4 triệu m
3
, còn lại rất ít
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét