Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Tiểu luận lòch sử Đảng
và bọn thực dân Pháp, cho nên sau một thời gian rất ngắn, cụ bị chúng cách chức. Cụ vào
Miền Nam (Nam Bộ) làm nghề thầy thuốc, cho đến lúc từ trần. Thân mẫu của Hồ Chủ tịch là
cụ Hồng Thị Loan (1868 - 1901), là người phụ nữ chòu thương chòu khó, trung hậu, đảm
đang. Chị của Hồ Chủ tịch là Nguyễn Thị Thanh, tức Bạch Liên (1884 – 1954) . Trong hồ sơ
của mật thám Pháp, bản lý lịch của Nguyễn Tất Thành khi xin vào xưởng Ba Son (1911), có
ghi: " Nguyễn Thị Thanh tức Bạch Liên sống độc thân có liên lạc với qn phiến loạn ở Nghệ
Tĩnh, lấy trộm 3 khẩu súng trong trại lính Vinh, đã bị kết án 9 năm khổ sai ". Anh của
Người là Nguyễn Sinh Khiêm, tức Nguyễn Tất Đạt (1888- 1950), đều tham gia phong trào
chống thực dân Pháp và bị tù đày. Từ 1890 đến 1901 Bác sống ở q
ngoại, cách làng Kim Liên q nội khơng xa. Người thầy có ảnh hưởng nhất trong tuổi ấu thơ
của Người là cử nhân Vương Thúc Q. Cụ Q là bạn thân của cụ Phó bảng Sắc và là con
thủ lĩnh Chung nghĩa binh Vương Thúc Mậu thời Cần Vương. Đội nghĩa binh của Vương
Thúc Q chiến đấu quanh vùng núi Chung (Nam Đàn), khi bị Pháp vây bắt, cụ Vương Thúc
Q đã nhảy xuống ao hy sinh ngay ở làng Sen cạnh nhà Bác. Chính ở ngơi nhà nhỏ ở làng
Sen, trước khi bước vào mái trường Quốc học Huế (1905), cậu Cung đã được vị túc nho
Vương Thúc Q hết lòng giúp đỡ, tinh thơng tứ thư ngũ kinh Nhưng điều quan trọng hơn
cả là cậu Cung được thầy học cho biết tường tận các địa điểm, biến diễn của các cuộc khởi
nghĩa ngay trên đất q nhà của Trần Tấn, Đặng Như Mai, của Phan Đình Phùng, Nguyễn
Xn Ơn, Vương Thúc Mậu và cả phong trào Đơng du của cụ Phan Bội Châu đang diễn ra
âm ỷ Cậu Cung rất chú ý lắng nghe những cuộc đàm đạo của cha mình với các đồng chí,
bèbạn như Sào Nam Phan Bội Châu, Vương Thúc Q, đội Qun (Đại Đấu) Cậu Cung trở
thành liên lạc cho các nhà nho u nước Người là một học trò thơng minh, chăm chỉ học tập
và sớm có tinh thần u nước. Các phong trào đấu tranh của các sĩ phu u nước như Phan
Chu Chinh, Phan Bội Châu, Hồng Hoa Thám đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chủ tịch.
Người nhận thấy các phong trào u nước chưa có được đường lối đấu tranh đúng đắn.
Người cần phải sang các nước phương Tây học tập vì ở đó có tư tưởng tự do, dân chủ và có
khoa học, kỹ thuật hiện đại. Sau này Hồ Chủ tịch đã kể lại: "Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tơi
đã được nghe những từ tiếng Pháp: tự do, bình đằng, bác ái Thế là tơi muốn làm quen với
văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy".
Con đường của Hồ Chủ tịch khác hẳn với con đường của các nhà u
nước tiền bối. Để đi tìm con đường cứu nước, Hồ Chủ tịch đã đi khắp năm châu bốn biển,
xem xét tình hình, nghiên cứu những lý luận và kinh nghiệm cách mạng mới nhất của thời
đại, hòa mình với quần chúng cơng nhân và nhân dân lao động đủ các màu da. Năm 1908,
sau khi tham gia phong trào chống thuế, bị đuổi học, Nguyễn Tất Thành bỏ vào Nam. Người
dừng lại ít lâu ở Phan Thiết, đạy học ở trường Dục Thanh do một số nhà giáo u nước lập
ra. Sau đó, Người và Sài Gòn rồi xuống tàu xuất dương để đi tìm đường cứu nước.
2.Q uá trình ra đi tìm đường cứu nước :
Sau một thời gian ngắn ở Sài gòn, giữa năm 1911 lấy tên là Ba, Hồ Chủ tịch làm phụ bếp
dưới tàu bn Đơ đốc La Tút Sơ Tơ Rê Vi Lơ (Amiral Latouche Tréville) thuộc Hãng vận tải
hợp nhất của Pháp. Từ đó Người ra đi, trước tiên là sang Pháp. Người khơng chỉ dừng lại ở
nước Pháp mà còn đi nhiều nước châu Âu, châu Phi và châu Mỹ.Người đã làm nhiều việc để
kiếm sống: làm trên tàu, nấu bếp, làm vườn khi ở La Ha Vơ Rơ (Le Havre); qt tuyết, đốt lò
và phục vụ khách sạn ở Ln Đơn (Anh). Tại đây, Người tham gia Cơng đồn lao động hải
ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh u nước của nhân dân Ai Len, liên hệ với một số người Việt
Nam u nước ở Pháp. Tại Mỹ, Hồ Chủ tịch đã đi làm th ở phố Bơrútlin.Qua nhiều nơi,
Người thấy rõ những cảnh bất cơng, tàn bạo của xã hội tư bản và ở đâu giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất dã man, các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 5
Tiểu luận lòch sử Đảng
là bọn đế quốc thực dân. Do đó, Người nhận rõ giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động các
nước đều là bạn.
Năm 1917, giữa những ngày ác liệt của chiến tranh thế giới thứ nhất, từ Anh trở lại Pháp,
Người tham gia Đảng xã hội Pháp và lập ra Hội những người Việt Nam u nước để tun
truyền và giác ngộ Việt kiều ở Pháp. Vừa hoạt động chính trị, vừa phải tự kiếm sống một
cách chật vật, khi thì làm cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ th tại một xưởng "đồ cổ mỹ nghệ
Trung hoa". Người tập viết báo, phân phát truyền đơn tại các cuộc họp đề tố cáo tội ác của
thực dân Pháp ở thuộc địa. Giữa những ngày hoạt động sơi nổi đó thì cách mạng tháng Mười
Nga bùng nổ làm chấn động tồn cầu. Cách mạng tháng mười Nga đã có một ảnh hưởng
quyết định trong đời hoạt động của Hồ Chủ lịch. Người quyết tâm đi theo con đường của
Cách mạng tháng Mười Nga. Năm 1918, chiến tranh thế giới kết thúc. Năm sau, các nước đế
quốc chủ nghĩa thắng trận họp hội nghị ở Véc xây (Verseille, Pháp) nhằm chia lại thị trường
thế giới. Thay mặt những người Việt Nam u nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc, là tên của Hồ
Chủ tịch lúc đó, gửi đến Hội nghị bản u sách nổi tiếng gồm 8 điểm, đòi chính phủ Pháp
phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.Sau Cách
mạng tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu
năm 1919, Lê nin và những người theo chú nghĩa Mác họp Đại hội ở Maxcơva, thành lập
Quốc tế thứ ba tức là Quốc tế cộng sản. Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lê nin, được Đại hội lần thứ hai của Quốc tế cộng sản năm 1920 thơng qua, đã vạch ra đường
lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Tại Đại hội lần thứ mười tám của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua (từ ngày 25 đến ngày 30
tháng 12 năm 1920) Hồ Chủ tịch đã đọc tham luận tố cáo những tội ác của thực dân Pháp ở
Đơng Dương và kêu gọi nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt
Nam và nhân dân các thuộc địa khác. Hồ Chủ tịch đã trở thành một trong những người sáng
lập Đảng cộng sản Pháp .Năm 1921, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ nhất của Đảng cộng
sản Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 12, tại thành phố Mác xây, Hồ Chủ tịch được cử
vào Đồn chủ tịch. Tại Đại hội này. Hồ Chủ tịch đã u cầu Đại hội nghiên cứu và xây dựng
một chính sách đối với thuộc địa theo đúng tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Người đề nghị
thành lập Ban nghiên cứu của Đảng về vấn đề thuộc địa. Ban này sẽ khởi thảo chính sách đối
với thuộc địa và báo cáo cho Đại hội năm sau (1922) xem xét và thơng qua. Năm 1922, Hồ
Chủ tịch là một ủy viên Ban nghiên cứu về thuộc địa của Phân bộ Pháp của Quốc tế cộng sản.
Đến Đại hội lần thứ hai (tháng 10-1922) của Đảng cộng sản Pháp, trong phiên họp thứ 23,
Hồ Chủ tịch lại được cử tham gia Đồn Chủ tịch Đại hội. Hồ Chủ tịch là một trong những
đảng viên đầu tiên của Đảng cộng sản Pháp, và cũng là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, cùng với một số ngươi u nước của
nhiều nước thuộc địa Pháp, Người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa. Là đại biểu của nhân dân
Đơng Dương, Người được bầu vào Ban chấp hành trung ương hội, làm ủy viên thường trực.
Năm 1922, Hội liên hiệp thuộc địa cho xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria). Hồ Chủ
tịch là chủ nhiệm kiêm chủ bút và quản lý tờ báo ấy. Báo Người cùng khổ vạch trần chính
sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói riêng,
thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh cách mạng. Nó được sự đồng tình và ủng hộ
của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động Pháp. Báo Người cùng khổ được bí mật chuyền
về nước cho nhân dân ta. Nhờ tờ báo ấy, nhiều người Việt Nam u nước thấy rõ hơn những
tội ác của thực dân Pháp và bước đầu hiểu được Cách mạng tháng Mười Nga và Lê nin.
Ngồi báo Người cùng khổ, Hồ Chủ tịch còn sáng lập báo Việt Nam hồn, viết bằng tiếng Việt,
là cơ quan tun truyền, giác ngộ lòng u nước, ý thức dân tộc cho cơng nhân, nhân dân lao
động nước ta và những Việt kiều lúc ấy đang sống ở Pháp.
3. Quá trình truyền bá CN Mác – Lênin vào Việt Nam và chuẩn bò về chính trò – tư
tưởng – tổ chức cho việc thành lập Đảng :
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 6
Tiểu luận lòch sử Đảng
Hồ Chủ tịch là người đầu tiên trong lịch sử cách mạng nước ta nhận rõ và tin tưởng
tuyệt đối vào lực lượng cách mạng vơ địch của quần chúng nhân dân sẽ lật đổ ách thống
trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai. Muốn giải phóng dân tộc, Người chủ
trương trở về nước, đi vào quần chúng, tổ chức, huấn luyện, đồn kết và lãnh đạo họ đấu
tranh, giành độc lập, tự do. Hồ Chủ
tịch về Quảng Châu (Trung Quốc) vào giữa tháng 12 năm 1924. Ở đây, Người lấy tên là
Lý Thụy. Người đi bán báo, bán thuốc lá để có tiền sinh sống và hoạt động cách mạng.
Tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, Người xúc tiến việc chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức để thành lập một đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Đồng
thời, với danh nghĩa cơng khai, Hồ Chủ tịch cơng tác trong phái đồn Bơ Rơ Đin, cố vấn
của Liên Xơ, bên cạnh chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Hồ
Chủ tịch chọn một số thanh niên u nước mở các lớp huấn luyện chính trị đề đào tạo họ
thành những cán bộ cách mạng, rồi cho về nước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin trong
giai cấp cơng nhân và nhân dân ta. Người sáng lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng
Đồng chí hội, một tổ chức tiền thân của Đảng; xuất bản tờ tuần báo Thanh niên, cơ quan
của Tổng bộ thanh niên. Hồ Chủ tịch đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở Á Đơng, trong đó có chi hội Việt Nam, để thống nhất hành động phòng kẻ thù
chung là chủ nghĩa đế quốc. Những bài giảng của Hồ Chủ tịch tại các lớp huấn luyện ở
Quảng châu được tập hợp lại, in thành cuốn sách với tên là Đường cách mạng, do Bộ
tun truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đơn xuấtbản. Tháng 4 năm 1927,
sau vụ phản biến của bọn Tưởng Giới Thạch ở Quảng Châu, Hồ Chủ tịch đi Liên Xơ, rồi
đi dự Hội nghị chống chiến tranh đế quốc họp ở Bơ Rúc Xen (Brucxelle, Bỉ); sau đó,
Người qua các nước Đức, Thụy sĩ, Ý, Thái Lan. Từ mùa thu
năm 1928, Người hoạt động ở Thái Lan, đào tạo cán bộ, tun truyền, giáo dục, tổ chức
Việt kiều, cho xuất bản tờ báo Thân ái, dùng làm cơ quan tun truyền cách mạng trong
kiều bào và gửi về nước. Ngồi những cơng việc nói trên, Hồ Chủ tịch còn học tiếng Thái
Lan, dịch sách và nhất là tham gia với kiều bào trong hội Hợp Đồng thời, Người cũng viết
nhiều bài cho các báo Nhân đạo, cơ quan trung ương của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống
cơng nhân, cơ quan trung ương của Tổng liên đồn lao động Pháp v.v , và viết cuốn sách
nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp. Bản án chế độ thực dân Pháp là một đòn tiến
cơng quyết liệt vào chủ nghĩa đế quốc và bước đầu vạch ra con đường đấu tranh cách
mạng đúng đắn cho nhân dân ta và các dân tộc bị áp bức khác. Vào nửa sau của năm 1923,
Hồ Chủ tịch từ Pháp đi Liên Xơ. Với tư cách là đại biểu của nơng dân các nước thuộc địa,
Người dự hội nghị Quốc tế nơng dân họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923 và
được bầu vào Ban chấp hành Quốc tế nơng dân. Ngày 21 tháng 1 năm 1924, Lê nin mất,
Hồ Chú tịch đi viếng Lê nin và viết bài Lê nin và các dân tộc thuộc địa.Hồ Chủ tịch ở lại
Liên Xơ một thời gian, làm việc ở Quốc tế cộng sản và viết nhiều bài cho báo Sự thật của
Đảng cộng sản Liên Xơ, tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế cộng sản để tiếp tục trình bày
những ý kiến của mình về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Là đại biểu
chính thức của Đảng cộng sản Pháp, Hồ Chủ tịch dự Đại hội lần thứ năm của Quốc tế
cộng sản (từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924 tại Maxcơva). Tại Đại hội lần
thứ năm của Quốc tế cộng sản, Người đọc một bản tham luận quan trọng, trình bày đầy đủ
lập trường, quan điểm của mình, thẳng thắn và thân ái phê bình một số đảng cộng sản lúc
ấy chưa quan tâm đúng mức đến cách mạng thuộc địa, đề ra những biện pháp tích cực đề
đầy mạnh phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và đặc biệt nhấn mạnh vấn đề giải
phóng nơng dân ở các nước đó.
Năm 1924, Hồ Chủ tịch nói: "Vận mệnh của giai cấp vơ sản thế giới phụ thuộc phần lớn
vào các thuộc địa, nơi cung cấp lương thực và binh lính cho các nước lớn đế quốc chủ
nghĩa. Nếu chúng ta muốn đánh bại các nước này, thì chúng ta trước hết phải tước
hếtthuộc địa của chúng đi".
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 7
Tiểu luận lòch sử Đảng
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã chứng minh quan điểm
cách mạng của Hồ Chủ tịch là hồn tồn đúng. Người khẩn thiết đề nghị Quốc tế cộng sản
đến phong trào giải phóng dân tộc, cần tuyển lựa đảng viên và đào tạo cán bộ cách mạng
là người thuộc địa, bằng cách gửi họ sang học ở trường Đại học phương Đơng tại
Maxcơva, tăng cường cơng tác tun truyền cách mạng ở các nước thuộc địa v.v…
Từ năm 1920, Hồ Chủ tịch đã thấy rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành
được thắng lợi thì phải đi theo con đường cách mạng vơ sản. Người vạch rõ kẻ thù chủ
yếu của nhân dân các nước thuộc địa là chủ nghĩa đế quốc và bọn phong kiến tay sai.Khi
tên vua Khải Định sang Pháp dự triển lãm thuộc địa (1922), Người viết vở kịch Con rồng
tre và nhiều bài báo đả kích tên vua bù nhìn ấy. Hồ Chủ tịch sớm nhận rõ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp cơng nhân quốc tế là giai cấp duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo cơng cuộc
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng lồi người thốt khỏi ách thống trị
của chủ nghĩa tư bản. Năm
1921, Người đã nêu rõ: "Ở các nước thuộc địa, vấn đề giải phóng dân tộc, thực chất là giải
phóng nơng dân, đánh đổ chủ nghĩa đế quốc giành độc lập dân tộc phải đi đơi với đánh đổ
giai cấp địa chủ phong kiến, mang lại ruộng đất cho nơng dân". Hồ Chủ tịch đã sớm nhận
rõ vai trò và sức mạnh của giai cấp nơng dân trong cách mạng giải phóng dân tộc. Người
đề nghị với những người cộng sản ở các nước nửa thuộc địa tiến hành mạnh mẽ một cuộc
vận động khẩn trương đề giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng thấy thật rõ sức mạnh
của mình, quyền lợi của mình và có đủ khả năng thực hiện được khẩu hiệu "Tất cả ruộng
đất về tay nơng dân".Với kinh nghiệm của mình, Người đã áp dụng chủ nghĩa Mác - Lê
nin một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng đúng
đắn và tun truyền rộng rãi đường lối ấy bằng cuốn Đường cách mạng và báoThanh
Niên . Từ cuối năm 1929, phong trào cơng nhân Việt
Nam đã có tính chất độc lập rõ rệt, trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào giải phóng
dân tộc ở nước ta. Phong trào cơng nhân và phong trào u nước của nhân dân ta đang đòi
hỏi sự lãnh đạo của một đảng của giai cấp cơng nhân. Do đó Đơng Dương Cơng sản
Đảng ở Bắc Bộ và An nam Cộng sản Đảng ở Nam Bộ ra đời. Trong tình hình ấy, Tân việt
Cách mạng Đảng đã được cải tổ thành ĐơngDương Cộng sản Liên đồn.Tuy nhiên cả ba
tổ chức trên đã khơng đồn kết trong việc tun truyền vận động quần chúng. Mùa thu
năm 1929, Hồ Chủ tịch đã từ Thái Lan về Hương Cảng (Hồng Kơng), triệu tập Hội nghị
thành lập Đảng họp vào ngày 3 tháng 2 năm 1930 ở Cửu Long, gần Hương Cảng (Trung
Quốc). Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị quyết định thống nhất ba tổ chức cộng sản ở
Việt Nam thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thơng qua Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt và điều lệ đảng do Hồ Chủ tịch thảo ra.
4.Hồ chủ tòch và bản tuyên ngôn đôc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
( 1940 – 1945 ) :
Từ năm 1924 Hồ Chủ tịch đã nhận định Đơng Dương và Thái Bình Dương sẽ là một
lò lửa của chiến tranh thế giới mới. Khi Đảng ta thành lập, Người phân tích những mâu
thuẫn của chủ nghĩa đế quốc và dự đốn là cuộc chiến tranh thế giới thứ hai sẽ bùng nỗ.
Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Đảng ta đã kịp thời rút vào hoạt động
bí mật, chuyển trọng tâm cơng tác về nơng thơn. Tháng
11 năm 1939, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu do đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng bí
thư của Đảng chủ trì, quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tập trung lực lượng vào
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đơng
Dương. Trong thời gian ấy, Hồ Chủ tịch (lấy tên là Hồ Quang) đã về tới Hoa Nam (Trung
Quốc) để bắt liên lạc với Trung ương Đảng và chuẩn bị điều kiện về nước hoạt động. Đồng
thời, Người chủ trương giữ vững liên lạc với quốc tế, củng cố các tổ chức cách mạng của ta
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 8
Tiểu luận lòch sử Đảng
ở ngồi nước và chuẩn bị ứng phó với tình hình sẽ xảy ra khi "Hoa qn nhập Việt".
Tháng 6 năm 1940, phát xít
Đức tiến cơng nước Pháp, Chính phủ tư sản Pháp đầu hàng, bọn thực dân Pháp ở Đơng
Dương hoang mang. Hồ Chủ tịch nhận định đó là thời cơ bắt đầu có lợi cho cách mạng Việt
Nam. Lúc bấy giờ, đang cơng tác ở Quế Lâm (Trung Quốc), Người đã tính đến việc xây
dựng căn cứ địa ở Cao Bằng. Người chỉ thị cho một số cán bộ của Đảng đang hoạt động ở
Trung Quốc phải gấp rút về nước chuẩn bị lực lượng, đón thời cơ, giành chính quyền.Từ
năm 1939, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng đã nhận định đế quốc Nhật sẽ xâm lược nước
ta. Đúng như vậy, tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật xâm chiếm Đơng Dương. Thực dân
Pháp quỳ gối dâng Đơng Dương cho Nhật. Tháng 11 năm 1940, Trung ương Đảng họp Hội
nghị lần thứ bảy, xác định hai kẻ thù trước mắt là đế quốc phát xít Nhật - Pháp và đề ra
nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Hội nghị quyết định duy trì đội
du kích Bắc Sơn và xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Cuối tháng 12 năm 1940, sau 30 năm xa cách,
Hồ Chủ tịch trở về nước. Tại một làng ở biên giới Việt - Trung, Người mở lớp huấn luyện
đào tạo cán bộ theo tài liệu do Người biên soạn, sau gọi là Con đường giải phóng. Ngày 8
tháng 2 năm 1941 về đến Pác bó (Cao-bằng), lấy tên là già Thu, Người triệu tập Hội nghị
lần thứ tám của Trung ương, đào tạo cán bộ và trực tiếp chỉ đạo cơng tác thí điểm xây dựng
các hội cứu quốc ở Cao Bằng. Người còn lược dịch Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xơ và cho
xuất bản báo Việt Nam độc lập (gọi tắt là Vìệt Lập). Mặc dù sống và hoạt động trong những
điều kiện vơ cùng gian khổ, Người vẫn ung dung, thanh thản:
" Sớm ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng,
Bàn đá chơng trênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang"
(Tức cảnh Pác bó)
Dưới ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Hồ Chủ tịch nêu cao
khí phách hào hùng, tinh thần tự lập, tự cường của một dân tộc bất khuất, đã có mấy nghìn
năm lịch sử chiến đấu và chiến tháng:
" Non xa xa, nước xa xa,
Nào phải thênh thang mới gọi là,
Đây xuối Lê nin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà."
(Pác bó hùng vĩ)
Tháng 5 năm 1941, thay mặt Quốc tế cộng sản, Hồ Chủ tịch chủ trì Hội nghị lần thứ
tám của Trung ương Đảng. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước một cách
khoa học. Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của
cách mạng Đơng Dương.Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội,
gọi tắt là Việt Minh. Để nhấn mạnh khẩu hiệu giải phóng dân tộc, tên các hội quần chúng
đều thống nhất là "Hội cứu quốc". Hội nghị thay khấu hiệu "Thành lập chính phủ liên
bang cộng hòa dân chủ Đơng Dương" bằng khẩu hiệu "Thành lập nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa". Hội nghị còn quyết định thành lập, phát triển và tăng cường lãnh đạo các tổ
chức vũ trang và nửa vũ trang.Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chú tịch, Hội nghị đã bầu
Ban chấp hành trung ương mới và cử đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư của Đảng.
Sau Hội nghị một ngày, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi tồn dân đồn kết đánh đuổi phát xít
Nhật Pháp .Để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, từ năm 1941, Hồ Chủ tịch
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 9
Tiểu luận lòch sử Đảng
chỉ thị tổ chức đội tự vệ vũ trang ở Cao Bằng và tự tay biên soạn một số tài liệu quan
trọng về chiến thuật du kích: Cách đánh du kích và Kinh nghiệm Trung Quốc. Ngồi ra,
Người còn biên dịch Phép dùng binh của Tơn Tử và sách dạy làm tướng của Khổng Minh
mà Người đặt dưới một đầu đề hồn tồn mới là Cách huấn luyện cán bộ q nsự.Sau Hội
nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng, theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch, vấn đề "Nam tiến"
được đặt ra và tiến hành một cách khẩn trương. Người phân cơng một số cán bộ phụ trách
đánh thơng hai con đường Cao Bằng - Lạng Sơn và Cao Bằng - Bắc Kạn – Thái Ngun,
để giữ vững liên lạc với Thường vụ Trung ương Đảng và tạo điều kiện phát triển cơ sở
chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng.Tháng 8 năm 1942 lấy tên là Hồ Chí Minh,
Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng chống Nhật của người
Việt Nam ở đó. Nhưng vừa qua biên giới thì bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới
Thạch bắt giam hơn một năm. Trong thời gian ấy, Người viết tập thơ Nhật ký trong tù. Bị
giải tới, giải lui khắp 13 huyện và khoảng 30 nhà lao tỉnh Quảng Tây, Hồ Chủ tịch đã sống
"cuộc sống khác với lồi người". Nhưng khơng gì có thể lay chuyển được ý chí sắt đá của
Người:
"Kiên trì và nhẫn nại,
Khơng chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ,
Khơng nao núng tinh thần".
(Bốn tháng rồi)
Người nói lên quyết tâm, tinh thần lạc quan và tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp
giải phóng dân tộc:
"Thà chết chẳng cam nơ lệ mãi,
Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền.
Xót mình giam hãm trong tù ngục,
Chưa được xơng ra giữa trận tiền".
(Ở Việt Nam có biến động)
"Người thốt khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn rõ lòng ngay;
người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa ắt rồng bay".
(Đốn chữ)
Tháng 9 năm 1943, sau khi được trả lại tự do, Người tiếp xúc với các tổ chức chống
Nhật, chống Pháp của người Việt Nam ở Liễu Châu, đồng thời, nối lại liên lạc với Đảng
để trở về nước tiếp tục lãnh đạo phong trào. Cuối năm 1941 đầu năm 1942, chiến tranh du
kích diễn ra 8 tháng liền ở Vũ Nhai (Thái Ngun). Năm 1944, phong trào cách mạng phát
triền khá mạnh. Từ khu căn cứ Bắc Sơn, Vũ Nhai và Cao Bằng, phong trào lên cao,
chuyển sang đấu tranh du kích. Tháng 7 năm 1944, liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng họp nhận
định tình hình và cho rằng điều kiện đã chín muồi để phát động chiến tranh du kích trong
liên tỉnh. Sau đó, liên tỉnh ủy sắp tổ chức một cuộc họp cuối cùng để giải quyết những vấn
đề còn lại và quyết định ngày giờ khởi nghĩa, thì Hồ Chủ tịch vừa trở về đến Pác-bó (Cao-
bằng). Sau khi nghe báo cáo về tình hình và nghị quyết của liên tỉnh ủy Hồ Chủ tịch quyết
định hỗn cuộc khởi nghĩa, vì nghị quyết ấy mới căn cứ vào tình hình Cao - Bắc - Lạng,
chưa căn cứ vào tình hình tồn quốc, tức là chỉ thấy bộ phận mà khơng thấy tồn thể.
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 10
Tiểu luận lòch sử Đảng
Người nhận định: bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ
tổng khởi nghĩa tồn dân chưa đến.
Trên cơ sở các lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, thực hiện chỉ thị của Hồ
Chủ tịch, ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tun truyền giải phóng qn được
thành lập do đồng chí Võ Ngun Giáp chỉ huy. Người nâng cao vai trò tun truyền, giác
ngộ cách mạng, vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của tồn dân, cần phải
động viên tồn dần, vũ trang tồn dân,
Để tiến hành đấu tranh vũ trang, Người nhấn mạnh: phải hành động kiên quyết và
nhanh chóng, trận đầu nhất định phải giành được thắng lợi. Trong hoạt động, phải huấn
luyện, trau dồi kinh nghiệm cho các đội vũ trang địa phương, phối hợp tác chiến, giữ vững
liên lạc với cơ quan lãnh đạo. Về chiến thuật tác chiến, Người căn dặn phải vận dụng lối
đánh du kích, bí mật, tích cực, nhanh chóng; tránh chủ quan, khinh địch; khi đi địch
khơng biết, khi đến địch khơng hay. Người gửi thư cho đồng bào tồn quốc khẳng định
thời cơ giải phóng dân tộc sắp đến gần và kêu gọi các đảng phái, các đồn thể ra sức
chuẩn bị để họp tồn quốc đại biểu đại hội.Từ Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng
và nhất là từ tháng 9 năm 1944, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng đã nhận định rằng phát
xít Nhật và thực dân Pháp nhất định sẽ loại trừ nhau: Đúng như vậy, ngày 9 tháng 3 năm
1945, Nhật làm đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm Đơng Dương. Từ ngày 9
đến ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng ở
Đình Bảng (Bắc Ninh) nhận định tình hình và ra bản chỉ thị rất quan trọng Nhật, Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta. Tháng 5 năm 1945, Hồ
Chủ tịch từ Cao Bằng về Tân Trào (Sơn Dương, Tun Quang) để trực tiếp chỉ đạo phong
trào cách mạng trong cả nước. Sau khi nghe báo cáo kỹ tình hình, Hồ Chủ tịch nhất trí với
nội dung chỉ thị của Thường vụ Trung ương và nội dung nghị quyết của Hội nghị qn sự
cách mạng Bắc kỳ (tháng 4 năm 1945), đồng thời Người còn bổ sung một số vấn đề quan
trọng, như việc thành lập khu giải phóng ở Việt Bắc và thống nhất các lực lượng vũ trang
thành qn giải phóng (ngày 4 tháng 6 năm 1945). Liền sau đó, Hồ Chủ tịch đã kịp thời
đề ra 10 chính sách cho khu giải phóng: đánh đuổi phát xít Nhật và bè lũ tay sai; tịch thu
tài sản của bọn cướp nước và bọn việt gian bán nước chia cho dân nghèo; thực hiện quyền
phổ thơng tuyển cử và các quyền tự do dân chủ khác; vũ trang quần chúng, động viên
quần chủng nhân dân ủng hộ du kích và tham gia Qn giải phóng; tổ chức khai hoang,
khuyến khích sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc ở Khu giải phóng; thi hành luật bảo hiềm
xã hội, cứu tế nạn dân; chia lại ruộng cơng, giảm tơ, giảm tức và hỗn nợ, bỏ thuế khóa và
phu dịch; thống nạn mù chữ và huấn luyện qn sự và chính trị cho nhân dân; thực hiện
dân tộc bình đấng, gái trai ngang quyền. Chiến tranh thế giới đã bước vào giai đoạn kết
thúc. Phát xít Đức, Ý đã đầu hàng Liên Xơ và các nước Đồng minh; phát xít Nhật ở Đơng
Dương hoang mang, dao động. Nắm vững thời cơ có một khơng hai đó, Hồ Chủ tịch cùng
với Trung ương Đảng kiên quyết phát động tồn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa, giành chính
quyền trong cả nước. Người nhấn mạnh: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới
đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập" .Do đề nghị của Hồ Chủ tịch, Hội nghị tồn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội được
chuẩn bị từ trước đã liên tiếp họp ở Tân Trào giữa lúc Qn đội Xơ Viết vừa mới tiêu diệt
được đội qn chủ lực của phát xít Nhật ở Đơng Bắc Trung Quốc. Hội nghị tồn quốc của
Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 quyết định tổng khởi nghĩa và nêu ra
mục tiêu đấu tranh là "phản đối xâm lược!" "hồn tồn độc lập ! ", "chính quyền nhân
dân !" và ba ngun tắc: tập trung, thống nhất và kịp thời đề chỉ đạo khởi nghĩa; đánh
chiếm ngay những nơi chắc thắng, khơng kể thành phố hay là nơng thơn; phải phối hợp
đấu tranh qn sự với đấu tranh chính trị, làm tan rã tinh thần qn địch trước khi đánh.
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 11
Tiểu luận lòch sử Đảng
Tiếp theo Hội nghị tồn quốc của Đảng, Quốc dân đại hội họp ngày 16 tháng 8 năm 1945,
dưới quyền chủ tọa của Hồ Chủ tịch. Quốc dân đại hội đã nhiệt liệt tán thành chủ trương
tổng khởi nghĩa của Đảng ta và của Tổng bộ Việt Minh. Đại hội cử ra Ủy ban dân tộc giải
phóng Việt Nam tức là Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do đồng
chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đồng thời, Đại hội còn quy định quốc kỳ và quốc ca của
nước Việt Nam mới. Cả nước vang lên lời kêu gọi tổng khởi nghĩa của Hồ Chủ tịch: "Hỡi
đồng bào u q!Hiện nay qn đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp
nước Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Tồn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang dua nhau
tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta khơng thể chậm trễ.Ngày 25 tháng 8 năm 1945,
Hồ Chú tịch từ Tân Trào (Tun Quang) trở về Hà Nội, để cùng Trung ương Đảng trực
tiếp lãnh đạo cách mạng. Hồ Chủ tịch chủ tọa các phiên họp Thường vụ Trung ương Đảng
tại Hà Nội, quyết định những vấn đề quan trọng về đối nội và đối ngoại trong tình hình
mới. Trước hết, phải sớm ra bản Tun ngơn độc lập, cơng bố danh sách Chính phủ lâm
thời và tổ chức lễ ra mắt của Chính phủ. Những việc này cần làm ngay trước khi qn đội
của Tưởng Giới Thạch vào Đơng Dương tước vũ khí qn đội Nhật. Ngày 28 tháng 8,
danh sách Chính phủ lâm thời được cơng bố trên các báo chí tại Hà Nội. Theo đề nghị của
Hồ Chủ tịch, thành phần Chính phủ lâm thời được mở rộng.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại
Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trịnh trọng đọc bản Tun ngơn độc lập lịch sử do Người thảo ra, tun bố nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời, thủ tiêu hồn tồn chính quyền thực dân và phong kiến, khẳng
định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam trước nhân dân ta và nhân dân thế giới :
"Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan
góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do!
Dân tộc đó phải được độc lập! Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập. Tồn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy ". Tun
ngơn độc lập là kết tinh những tác phẩm trước đây của Hồ Chủ tịch, những văn kiện của
Đảng và những bản tun ngơn của các anh hùng dân tộc và các vị cách mạng tiền bối.
Tun ngơn độc lập là một trang vẻ vang bậc nhất trong lịch sử đấu tranh kiên cường, bất
khuất của dân tộc Việt Nam ta từ trước đến nay. Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính
chất thời đại của Cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỷ ngun mới trong lịch. sử dân
tộc Vìệt Nam, vì nó đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ
nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam Á. "Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành cơng, đã nắm chính quyền tồn quốc".
5.H ồ chủ tòch lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954) :
Mới giành được chính quyền, chưa có thời gian để tổ chức và củng cố lực lượng của
mình nhân dân ta đã phải đối phó với tình hình cực kỳ khó khăn, phức tạp. Nạn đói khủng
khiếp do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra vẫn còn đe dọa nhân dân ta. Kinh tế, tài
chính nước ta kiệt quệ. Trong khi đó ở miền Bắc, 20 vạn qn Tưởng thừa lệnh đế quốc Mỹ
kéo sang Việt Nam mượn cớ tước vũ khí qn Nhật, kỳ thật là nhằm thực hiện âm mưu tiêu
diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động nước ta lật đổ chính quyền nhân dân,
lập một chính phủ phản động làm tay sai cho Mỹ, Tưởng. Bọn phản cách mạng như Việt
Nam quốc dân đảng, Phục quốc, Việt Nam cách mạng đồng minh hội, v.v đòi thay đổi
thành phần Chính phủ, thay đổi Quốc kỳ và đòi Hồ Chủ tịch phải từ chức v.v Ở miền
Nam, nấp sau lưng qn đội Anh, thực dân Pháp đã quay trở lại đánh chiếm nước ta một lần
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 12
Tiểu luận lòch sử Đảng
nữa. Bọn phản động cũng nổi dậy làm tay sai cho thực dân Pháp, tìm mọi cách chống lại
cuộc kháng chiến của đồng bào ta ở miền Nam. Trong lúc vận mệnh của Nhà nước ta như
"ngàn cân treo sợi tóc" Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân tăng cường đồn kết chống giặc đói,
chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm và đề ra khẩu hiệu kháng chiến đi đơi với kiến quốc.
Để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu lúc này là giữ vững chính quyền cách mạng, Hồ Chủ tịch
đặt vấn đề phải tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử, bầu Quốc hội, thành lập
Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp dân chủ, làm cho nhân dân tin tưởng vào chế
độ mới. Trước thế giới, chính quyền do dân bầu ra sẽ có một giá trị pháp lý khơng thể phủ
nhận được.Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc tổng tuyển cử tiến hành thắng lợi trong cả nước.
Tồn dân ta tỏ rõ sự tín nhiệm đặc biệt đối với Hồ Chủ tịch. Ngày 2 tháng 3 năm 1946,
trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội, Người được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Uỷ ban dự thảo hiến pháp được thành lập do Hồ Chủ tịch trực tiếp chỉ đạo.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc hội thơng qua Hiến Pháp đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, xác nhận quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do dân chủ của
nhân dân ta. Để mang lại quyền lợi cấp bách và thiết thực cho nhân dân, trước hết là cho
cơng nơng, Hồ Chủ tịch đề nghị với Chính phủ bãi bỏ chế độ thuế khóa của thực dân Pháp;
ban hành luật lao động, bảo vệ quyền lợi của cơng nhân; quy định giảm tơ cho nơng dân, lấy
ruộng đất chia cho nơng dân. Người phát động chiến dịch tăng gia sản xuất, Tuần lễ vàng,
thanh tốn nạn mù chữ. Trong thư gửi học sinh nhân dịp khai trường và thư gửi thiếu nhi
nhân dịp tết Trung thu, Người căn dặn thiếu niên và nhi đồng phải cố gắng học tập để mai
sau xây dựng nước nhà.Theo sáng kiến của Hồ Chủ tịch, tháng 5 năm 1946, Hội liên hiệp
quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập để mở rộng khối đại đồn kết tồn
dân, bắt tay với các đảng phái chính trị và các nhân sĩ dân chủ và thân sĩ u nước mới gia
nhập Mặt trận dân tộc thống nhất. Nhận rõ kẻ thù trước mắt là thực dân Pháp, Người tạm
thời hồ hỗn với qn Tưởng, nhân nhượng cho chúng một số quyền lợi về chính trị và
kinh tế để giữ vững chính quyền, rảnh tay đối phó với qn Pháp ở miền Nam.
Từ cuối tháng 2 năm 1946, theo lệnh của đế quốc Mỹ, qn Tưởng đã thỏa thuận cho
qn Pháp kéo ra miền Bắc thay thế chúng. Để khơng phải bước ngay vào cuộc chiến đẩu
trên phạm vi cả nước chống nhiều kẻ thù cùng một lúc trong khi chưa được chuẩn bị, Hồ
Chủ tịch đã cùng với Trung ương Đảng chuyển sang chủ trương tạm thời hồ hỗn với
qn Pháp bằng Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946. Nhờ đó, chúng ta đã tống cổ
qn Tưởng ra khỏi miền Bắc, qt sạch bọn tay sai của chúng, đồng thời cũng phá được
âm mưu của đế quốc Mỹ. Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Hồ Chủ tịch lên đường thăm nước
Pháp với tư cách là thượng khách của chính phủ Pháp. Trong thời gian ở nước Pháp, Hồ
Chủ tịch đã tranh thủ tun truyền cho mọi tầng lớp nhân dân Pháp hiểu rõ cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân ta, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân Pháp và
nâng cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên trường quốc tế. Người tỏ rõ thiện
chí hòa bình của nhân dân ta trên ngun tắc bảo vệ chủ quyền và thống nhất của dân tộc ta:
"Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sơng có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý
đó khơng bao giờ thay đổi.Do thái độ ngoan cố và hiếu chiến của thực dân Pháp, cuộc đàm
phán chính thức giữa đồn đại biểu Chính phủ ta do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu với
đồn đại biểu Chính phủ Pháp tại Phơng Ten Nơ Bơ Lơ (Fontaine Bleau) khơng thành cơng.
Hồ Chủ tịch ký Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946 với Chính phủ Pháp để tranh thủ thời
gian tiếp tục xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến tồn quốc, điều mà Người
biết chắc chắn sẽ xảy ra. Trước những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp,
đêm 19 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến từ cục bộ đã lan ra khắp nước.Ngày 20 tháng
12 năm 1946, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi tồn quốc khángchiến: "Chúng ta muốn hòa bình,
chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa". "Khơng Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
khơng chịu mất nước,nhất định khơng chịu làm nơ lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 13
Tiểu luận lòch sử Đảng
lên!"Bất kỳ dàn ơng, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ khơng chia tơn giáo đảng phái, dân
tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng
dùng súng, ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng
phải ra sức chống thực dân cứu nước"
Để động viên mọi lực lượng kháng chiến, tháng 6 năm 1948, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi
thi đua u nước: thi đua diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm; thi đua thực
hiện tồn dân kháng chiến, tồn diện kháng chiến, tiền tuyến thi đua giết giặc, hậu phương
thi đua sản xuất và tiết kiệm. Hồ Chủ tịch ln ln chăm lo củng cố và phát triển Đảng.
Hồ Chủ tịch chỉ rõ Đảng cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu, tồn Đảng phải nhất trí
về tư tưởng, thống nhất về tổ chức và hành động. Cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chấp
hành đúng mọi chính sách của Đảng và Chính phủ; phải liên hệ mật thiết với quần chúng, đi
đường lối quần chúng; phải thực hiện tự phê bình và phê bình. Đảng viên phải tồn tâm
tồn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phải có nhiệt tình cách mạng và phẩm chất, đạo
đức tốt.Tháng 3 năm 1947, Người viết Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ và tiếp đấy viết thư
gửi Các đồng chí Trung Bộ, kêu gọi cán bộ đảng viên hãy đem tất cả tinh thần và lực lượng
để lãnh đạo tồn thể nhân dân ta nhằm vào một mục đích: đánh đuổi thực dân Pháp, làm
cho nước nhà thống nhất và độc lập. Người phê phán những khuyết điểm của cán bộ, đảng
viên như: địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, qn phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham chuộng
hình thức, làm việc lối bàn giấy, vơ kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa. Tháng 10 năm 1947, Người viết
cuốn Sửa đổi lối làm việc làm tài liệu tu dưỡng tư tưởng, đạo đức và tác phong cho cán bộ
và đảng viên. Người nêu lên 12 điều xây dựng Đảng và 5 điểm về đạo đức cách mạng:
nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng chú trọng
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với ba thứ qn: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
và dân qn du kích. Người thường nhắc nhở: qn đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu, "qn với dân như cá với nước" cho nên phải bảo vệ tính mạng và tài sản của
nhân dân, khơng được động đến một cái kim, sợi chỉ của dân; đóng qn ở đâu phải giúp đỡ
nhân dân ở đó tăng gia sản xuất. Hồ Chủ tịch khẳng định rằng chính quyền phải thật sự là
của nhân dân, do dân cử ra để phục vụ nhân dân. Cán bộ và nhân viên chính quyến phải là
"đầy tớ trung thành của nhân dân", gương mẫu trong việc thực hiện các chính sách của
Chính phủ Ngày 14 tháng 1 năm 1950, Hồ Chủ tịch tun bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại
giao với các nước tơn trọng quyền bình đẳng và chủ quyền của nước Việt Nam dân chủ
cộng hồ. Liền sau đó Liên Xơ, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác lần lượt
cơng nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.
Tháng 9 năm 1950, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch biên
giới. Lần đầu tiên qn ta mở một chiến dịch lớn như thế. Hồ Chủ tịch đích thân ra mặt
trận, trực tiếp tham gia chỉ đạo tác chiến.
Tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thú hai của Đảng họp tại căn cứ địa
Việt Bắc. Trong Báo cáo chính trị đọc trước Đại hội, Hồ Chủ tịch tổng kết kinh nghiệm
hoạt động trong 21 năm qua, khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, vạch
rõ ưu khuyết điểm của cán bộ đảng viên. Bản báo cáo vạch trần âm mưu của đế quốc Mỹ
can thiệp sâu vào Đơng dương, nêu lên khẩu hiệu chính của ta là: "Tiêu diệt thực dân
Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hồn tồn, bảo vệ hồ bình
thế giới". Hồ Chủ tịch nhấn mạnh cần phải chú trọng, tăng cường đồn kết tồn dân, phát
huy truyền thống u nước của dân tộc. Hồ Chủ tịch còn nêu lên sự cần thiết của tình đồn
kết giữa các nước anh em Lào, Cam Pu Chia tiến đến thành lập Mặt trận các dân tộc Việt
SV: Nguyễn Ngọc Hiếu 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét