Theo Người xóa đói giảm nghèo phải là: "Làm cho người nghèo thì đủ ăn,
người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm" [2 ; Tr 62]. Vậy là, mọi thành
viên trong xã hội không ngừng phấn đấu vươn lên vượt qua cửa ải đói nghèo, Người
quan niệm xã hội mà chúng ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” nó xa lạ với đói nghèo bần cùng, lạc hậu, là xã hội giàu về kinh
tế, lành mạnh về văn hoá xã hội, quan niệm này hàm chứa ý nghĩa to lớn trong việc
giải phóng sức sản xuất, hướng đến phát triển toàn diện con người.
Theo Người một dân tộc dốt cũng là một dân tộc yếu, giặc dốt cũng là một
trong ba thứ giặc nguy hiểm nó sẽ kìm hãm sự phát triển, Người chỉ ra rằng: ăn no
mặc ấm phải đi liền với học hành tiến bộ xã hội phải ngày càng tiến, vật chất ngày
càng tăng phải đi liền với tinh thần ngày càng tốt. Qua đó chúng ta thấy rằng ý
nghĩa sâu xa trong tư tưởng xóa đói giảm nghèo của Người bên cạnh xóa đói giảm
nghèo về vật chất phải chú ý cả xóa đói giảm nghèo về tinh thần, không nên phiến
diện một chiều chỉ tập trung về kinh tế, mà bỏ quên văn hoá tinh thần lúc ấy sẽ xuất
hiện nguy cơ, lực cản nguy hiểm ảnh hưởng đến sự phát triển, tư tưởng này đến nay
vẫn thể hiện rõ tính thời sự của nó rằng: phát triển bền vững phải bao hàm cả vật
chất và tinh thần. Đó là giá trị thật sự trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
xóa đói giảm nghèo, mà chúng ta cần vận dụng sáng tạo trong điều kiện tình hình - 8 -
mới, phấn đấu đạt mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
1.1.2. Quan điểm của Đảng về vai trò và tầm quan trọng của công tác
xóa đói giảm nghèo:
Đảng Công sản Việt Nam xem xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt
trong qua trình phát trển kinh tế xã hội của đất nước. Thực hiện xoá đói giảm nghèo
phải trên tinh thần phát huy nội lực, không trông chờ ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà
nước, quan tâm tập trung cho các vùng nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng kháng
chiến củ và vùng sâu, vùng xa. Xoá đói giảm nghèo phải trên cơ sở đẩy mạnh sản
xuất, thực hành tiết kiệm và tiến hành đồng bộ, có sự lồng ghép với các chương
trình kinh tế xã hội khác. Xác định xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo
công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững của đất nước, nguợc lại chỉ có tăng
trưởng cao, bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người
nghèo vươn lên thoát khỏi đói nghèo.
Công tác xoá đói giảm nghèo phải được xã hội hoá theo quan điểm “Nhà
nước, các tổ chức chính trị xã hội, nhân dân và bản thân hộ nghèo cùng lo”.
Xóa đói giảm nghèo có vai trò rất quan trong là sự nghiệp của toàn dân, có
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế xã hội của nhân dân và sự phát triển của đất
nước. Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) Nguyễn
Thanh Hoà cho biết: Ngày 27/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững (đối với
61 huyện thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%, chiếm khoảng 18% tổng số hộ ở
nông thôn, trong đó trên 90% là đồng bào dân tộc thiểu số). Nghị quyết này được
Bộ LĐTB&XH quán triệt đến từng địa phương có hộ nghèo theo đúng quan điểm
chỉ đạo của Chính phủ: “xóa đói giảm nghèo là sự nghiệp của toàn dân”, kết quả
thành công phụ thuộc trước hết vào sự nỗ lực vươn lên của người nghèo, trong đó
Nhà nước dành nguồn lực ưu tiên đầu tư tạo điều kiện để các huyện nghèo phát
triển nhanh hơn, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Tại Diễn đàn, các tổ chức song phương, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ…tiếp
tục chia xẻ, hợp tác và cam kết hỗ trợ cả về tài chính lẫn kỹ thuật và kinh nghiệm - 9 -
cho Việt Nam để thực hiện chương trình này một cách có hiệu quả. Ông Nguyễn
Thanh Hoà nhấn mạnh, chương trình hỗ trợ các huyện nghèo mang tầm quốc gia, có
ý nghĩa chiến lược quan trọng, vì vậy cần nhanh chóng thực hiện để xóa đói giảm
nghèo nhanh. Bộ LĐTB&XH cũng đã xây dựng danh sách dự kiến phân công các
bộ, ngành chỉ đạo theo dõi, kiểm ra các tỉnh có huyện nghèo; các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty đỡ đầu, kết nghĩa các huyện nghèo, đồng thời dự kiến thành lập, phân
công các nhóm công tác liên bộ hướng dẫn xây dựng đề án giảm nghèo cấp huyện,
trước mắt trong năm 2009 và đầu năm 2010 phấn đấu hoàn thành xóa nhà tranh tre,
dột nát và xa hơn là phấn đấu nâng mức sống của người nghèo ở các huyện nghèo
lên gấp 5 - 6 lần hiện tại [25].
Thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo là một trong những thành công
quan trọng của quá trình phát triển kinh tế xã hội. Ngày 25/9 tại New York, phát
biểu tại Cuộc thảo luận bàn tròn về Mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong Phiên họp
cấp cao Đại hội đồng Liên Hợp quốc (LHQ) kiểm điểm giữa kỳ việc thực hiện Các
Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại
giao Phạm Gia Khiêm đã nêu bật nỗ lực của Việt Nam biến cam kết thành hành
động thực tế nhằm tiến tới thực hiện tám mục tiêu xóa đói giảm nghèo vào năm
2015.
Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nói: "Việt Nam hết sức coi trọng phiên họp
cấp cao lần này của Đại hội đồng LHQ nhằm đánh giá những kết quả, bài học kinh
nghiệm của nửa chặng đường thực hiện Các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ
(MDG), từ đó đề ra các kế hoạch cùng biện pháp cụ thể để phấn đấu hoàn thành vào
thời hạn năm 2015. Các mục tiêu này là nội dung quan trọng của Chiến lược tổng
thể được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ năm 2000 của các quốc
gia thành viên LHQ, nhằm huy động trách nhiệm tập thể vì một thế giới mới công
bằng, bình yên hơn.
Quá trình thực hiện vừa qua cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa chiến lược của
MDG là đã trở thành khuôn khổ chung cho hợp tác phát triển trên bình diện quốc tế
và định hướng chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi quốc gia. Chúng
ta vui mừng về những đổi thay tích cực mà người dân đã được hưởng từ quá trình - 10 -
này, đó là có thêm 1,6 tỷ người được tiếp cận với nước sạch so với năm 1990, số
người mắc và tử vong vì một số căn bệnh như lao, HIV/AIDS đã bắt đầu giảm, có
tiến bộ đáng kể về bình đẳng giới, ở nhiều nơi số trẻ em đi học tiểu học đạt trên
90%. Đặc biệt là tỷ lệ nghèo tính chung cho cả thế giới đã giảm từ 41% vào năm
1990 xuống còn 26% vào năm 2005.
LHQ và các đối tác phát triển khác đã ghi nhận những kết quả ấn tượng về
thực hiện MDG ở Việt Nam thể hiện qua thực tế là Việt Nam đã đạt hoặc vượt ở
nhiều mục tiêu và nhiều khả năng sẽ hoàn thành các mục tiêu còn lại trước năm
2015. Theo chuẩn nghèo quốc gia thì tỷ lệ số hộ nghèo toàn quốc đã giảm từ 58%
năm 1993 xuống còn 14,8% năm 2007, theo chuẩn quốc tế thì cũng là từ 58% năm
1993 xuống còn 24% vào năm 2004 và do vậy, đã sớm đạt Mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo".
Những kết quả đó gắn liền với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới
toàn diện được tiến hành ở Việt Nam từ giữa những năm 1980, trong đó có tăng
trưởng khá cao trong thời gian dài, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và sự hỗ trợ
của cộng đồng quốc tế, trong đó có các tổ chức LHQ. Trong năm nay, Việt Nam
cũng gặp phải một số khó khăn kinh tế do những yếu tố khách quan và chủ quan.
Ưu tiên hàng đầu hiện nay của Việt Nam là thực hiện tốt các nhóm giải pháp đồng
bộ được Chính phủ đề ra nhằm phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững; tới nay, việc triển khai quyết liệt
các giải pháp này đã đem lại những kết quả tích cực chiếu theo các chỉ số quan
trọng.
Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nói tiếp: "Báo cáo của các quốc gia và
LHQ đều cho thấy hiện còn nhiều thách thức phải giải quyết vì kết quả đạt được
chưa đều giữa các mục tiêu cũng như giữa các quốc gia và nếu theo như xu hướng
hiện nay thì hàng chục nước đang phát triển có thể không đạt được các mục tiêu
theo đúng thời hạn. Ở Việt Nam, chúng tôi cũng cần nỗ lực để đạt tiến bộ đồng đều
giữa các mục tiêu, vùng miền, nhóm dân cư và nâng cao tính bền vững của những
kết quả đạt được”. - 11 -
Việt Nam khuyến nghị LHQ tổng hợp thực tiễn, ý kiến đóng góp nêu tại
Phiên họp này để bổ sung cho chương trình hành động trong thời gian tới. Chúng
tôi ủng hộ các khuyến nghị đã được nhiều nước nêu trong cuộc thảo luận và được
đề cập trong các báo cáo chuẩn bị trong dịp này. Điều cần nhấn mạnh là tầm quan
trọng của việc xây dựng các chính sách phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực, ưu tiên cho người nghèo ở các quốc gia và tăng cường hợp tác để tạo
điều kiện cần thiết cho MDG như môi trường quốc tế hòa bình, kinh tế toàn cầu ổn
định, quan hệ kinh tế, thương mại quốc tế bình đẳng hơn và những nguồn lực lớn
hơn. LHQ có vai trò trung tâm trong việc hỗ trợ thực hiện MDG cũng cần tiếp tục
được cải tổ, nâng cao năng lực để phát huy vai trò đó. Chúng ta cũng cần hành động
mạnh mẽ hơn nữa để xử lý những vấn đề hiện đang đặt ra về biến đổi khí hậu, an
ninh năng lượng và an ninh lương thực".
Cuộc họp cấp cao này, do Tổng thư kí Ban Kimoon và Chủ tịch Đại hội đồng
LHQ khóa 63, ông Miguel D'Escoto, triệu tập với sự tham dự của gần 100 nhà lãnh
đạo cấp cao cùng đại diện 192 nước thành viên LHQ, diễn ra trong bối cảnh kinh tế
toàn cầu đang vật lộn với hàng loạt khó khăn do giá nhiên liệu tăng và cuộc khủng
hoảng tài chính lan rộng, gây trở ngại nghiêm trọng cho nỗ lực nhằm xóa bỏ tình
trạng đói nghèo cùng cực, phổ cập giáo dục tiểu học, giảm tỉ lệ tử vong của trẻ em,
và đặt ra những thách thức mới cho các nước nghèo trong việc thực hiện một vài
trong số tám mục tiêu này.[26; website]
Năm 1948 trong lời kêu gọi thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đói
nghèo là một trong 3 thứ giặc “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Lời kêu gọi đó
đã trở thành khẩu hiệu chiến lược trong suốt thời kháng chiến,và kiến quốc. Ngày
nay, xóa đói giảm nghèo, là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là
một chương trình quốc gia có ý nghĩa về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng
với tính nhân văn sâu sắc, phát huy được bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ
nghĩa, góp phần phát triển đất nước một cách bền vững, được các cấp ủy Đảng,
chính quyền, đoàn thể xem là nhiệm vụ trọng tâm, được nhân dân đồng tình hưởng
ứng. - 12 -
1.2. TÌNH HÌNH ĐỜI SỐNG CỦA ĐỒNG BÀO KHMER NAM BỘ
1.2.1. Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội đồng bào Khmer Nam Bộ:
Đồng bào Khmer Nam Bộ sống tập trung chủ yếu ở khu vực Đồng Bẳng
Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất cực Nam của Tổ quốc, với diện tích tự nhiên
39.842 km2
, dân số khỏang 18 triệu người (năm 2008), gồm 4 dân tộc chính: Kinh,
Khmer, Hoa và chăm. Trong đó có khoảng 1,3 triệu người dân tộc Khmer sống tập
trung ở chủ yếu ở 8 tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long và tập trung đông nhất ở các
tỉnh: An Giang khoảng 85.000 người (chiếm 80% dân số tỉnh), Trà Vinh khỏang
320.000 người (Chiếm 30% dân số tỉnh), Sóc Trăng khoảng 400.000 người (chiếm
29% dân số tỉnh), Kiên Giang (chiếm 13% dân số tỉnh) [20]. Ngoài ra người Khmer
con sinh sống ở các tỉnh khác như: Bạc Liêu, Thành phố Cần Thơ, Vĩnh Long, Hậu
Giang, Cà Mau. Các tỉnh còn lại có một số bà con Khmer sinh sống nhưng với số
lượng ít.
Những năm qua, nhờ tăng trưởng kinh tế nhanh, công cuộc xoá đói giảm
nghèo đã đạt nhiều kết quả to lớn, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên
địa bàn và phần lớn đồng bào Khmer đã được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung
bình và số hộ khá tăng lên, không còn hộ đói triền miên, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn
quốc gia giảm dần. Tuy nhiên, do những hạn chế của mặc trái trong cơ chế thị
trường; đa số đồng bào là sản xuất nông nghiệp nhỏ; thị trường không ổn định, giá
cả nông sản và vật tư nông nghiệp diễn biến từng lúc thất thường. Điểm xuất phát
của các dân tộc không đều nhau, trình độ dân trí thấp,…nên so với cả nước mức
sông chung của người dân ở ĐBSCL còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn nhiều nơi
còn cao. Đặc biệt là trong đồng bào dân tộc Khmer, tỷ lệ cao hơn nhiều so với tỷ lệ
chung trong khu vực.
Theo báo cáo của 8 tỉnh ở ĐBSCL nơi có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh
sống, số hộ nghèo trong đồng bào dân tộc Khmer chiếm tỷ lệ 32,64% so với tổng số
hộ dân tộc Khmer chung trong khu vực:
Tỉnh Sóc Trăng có 26.173 hộ Khmer nghèo, chiếm 34% số hộ Khmer trong
Tỉnh (được xếp vào hàng nghèo nhất khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long và đứng - 13 -
thứ 3 trong cả nước). Có khoảng 5.000 hộ không có đất ở và 34.000 căn nhà lá tạm
bợ cần phải hỗ trợ.
Tỉnh Kiên Giang có 6.353 hộ Khmer nghèo, chiếm 26,5% so với toàn tỉnh.
Có một số xã, hộ Khmer nghèo chiếm trên 50% tổng số hộ nghèo toàn xã. Có 433
hộ chưa có nhà ở. Còn 3.169 căn nhà xiêu vẹo, tạm bợ, 3.827 căn nhà cột, mái lá,
vách lá và 228 căn nhà ở trong vùng phải di dời
Tỉnh An Giang có 6.748 hộ Khmer nghèo và cận nghèo, chiếm khoảng 31%
so với toàn tỉnh. Có 432 hộ không có đất ở và 3.068 hộ không có nhà ở.
Tỉnh Trà Vinh có 20.445 hộ Khmer nghèo, chiếm 29,3% so với toàn tỉnh.
Có 18.618 hộ có nhu cầu về đất ở, trong đó có 1.827 hộ nghèo hoàn toàn không có
đất ở. Có 13.593 hộ với 61.158 nhân khẩu không có nhà ở, đang phải ở chung, ở
nhờ.
Toàn khu vực có 50 - 60% dân số được dùng điện, nước. Học sinh tiểu học
đạt khoảng 75%, trung học phổ thông đạt khoảng 30%, sinh viên đại học, cao đẳng
còn rất hạn chế. Tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng, mù chữ, tái mù chữ khá cao. Tỷ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng bình quân toàn khu vực khoảng trên 30% [23].
1.1.2. Nguyên nhân nghèo trong đồng bào Khmer Nam Bộ:
Nguyên nhân nghèo trong đồng bào Khmer Nam Bộ có nhiều nguyên nhân
có thể kể đến các nguyên nhân chính sau:
Thú nhất: Phần lớn đồng bào Khmer sinh sống bằng nghề nông nghiệp,
thường cư trú tập trung ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ, xa trục lộ, một bộ phận
lại cư trú ở sát khu vực biên giới. Do điểm xuất phát của hạ tầng kinh tế - xã hội
cũng như mặt bằng dân trí thấp, khả năng tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất gặp nhiều khó khăn, nên điều kiện vươn lên để hoà nhập vào sự
phát triển chung của toàn xã hội bị chậm hơn so với các vùng khác. Mặt khác, việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế của từng vùng, từng địa phương chưa nhiều, tập quán sản
xuất, sinh hoạt của đồng bào nhìn chung vẫn còn lạc hậu. Sản xuất của đồng bào ở
nhiều vùng vẫn chỉ dựa vào thiên nhiên là chính, vì thế thường xuyên bị ảnh hưởng,
thiệt hại do lũ lụt thiên tai gây ra. - 14 -
Thứ hai: Phần lớn số hộ Khmer có đông con nhưng lại ít lao động chính,
thường xuyên thiếu việc làm, thu nhập thấp và không ổn định, bình quân thu nhập
đầu người thấp, số thu nhập này chủ yếu phục vụ đời sống hàng ngày, các gia đình
không có khả năng tích luỹ.
Đa số hộ đồng bào Khmer, còn thiếu kinh nghiệm trong sản xuất nên hiệu
quả kinh tế không cao. Kiến thức quản lý kinh tế hộ cũng như kế hoạch chi tiêu gia
đình còn hạn chế. Phần lớn do hoàn cảnh khó khăn, dẫn đến bán đất, cầm cố đất,
bán gia súc, gia cầm để phục vụ cho việc cưới xin, ma chay và các phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của đồng bào,
làm cho kinh tế gia đình thâm hụt, khoảng cách giàu nghèo giữa các hộ, giữa các
dân tộc cũng như giữa các vùng với nhau ngày càng chênh lệch.
Thứ ba: Phần lớn đồng bào Khmer không có đất sản xuất đây cũng là một
trong các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nghèo trong đồng bào Khmer, đó là
hàng ngàn hộ nông dân Khmer hiện không có đất sản xuất:
- Tỉnh Kiên Giang có 2.842 hộ, trong đó 610 hộ thiếu và 2.232 hộ không có
đất sản xuất.
- Tỉnh Trà Vinh có 11.224 hộ thiếu và 12.378 hộ không có đất sản xuất.
- Tỉnh Sóc Trăng có 18.284 hộ không có đất và hàng ngàn hộ khác thiếu đất
sản xuất.
- Tỉnh An Giang có 2.611 hộ thiếu và không có đất sản xuất [23].
Ngoài 4 tỉnh nêu trên, các tỉnh có đồng bào Khmer sinh sống còn lại thuộc
khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, đều có chung hoàn cảnh, đặc điểm và khó
khăn nêu trên.
Thứ tư: Một số cơ chế chính sách, nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế- xã hội
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, vốn tín dụng ưu đãi cho người nghèo…
chưa rộng khắp và không kịp thời. Chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa hỗ trợ
vay vốn với việc hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực chuyên môn cho người nông
dân, nên hiệu quả sử dụng đồng vốn chưa cao. Có không ít hộ đồng bào vay vốn
ngân hàng để sản xuất, đến hạn chưa trả được, phải đi vay tư nhân chịu lãi suất cao,
trả cho ngân hàng để được vay lại. Vì thiếu vốn, có những hộ phải cầm cố đất để rồi - 15 -
lại làm thuê ngay trên mảnh đất của chính mình. Bán bò rồi lại nhận nuôi bò rẽ cho
chủ mới. Nhiều hộ thường xuyên phải bán lúa non. Vì thế, những người nông dân
đã nghèo lại càng nghèo túng hơn.
Chính sách hỗ trợ người nghèo về Y tế, giáo dục chưa đáp ứng được những
khó khăn hiện tại của đồng bào. Công tác dạy nghề gắn với việc làm có thu nhập ổn
định cho người lao động, chưa được triển khai rộng rãi, còn thiếu đồng bộ và kém
hiệu quả.
Vai trò, khả năng, quản lý điều hành thực hiện chương trình xoá đói giảm
nghèo trong vùng đồng bào Khmer của một số cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể
địa phương còn thiếu và yếu, nặng về kiêm nhiệm, hình thức, chưa được đào tạo,
bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ. Vì thế công tác xoá đói giảm
nghèo chưa đạt được kết quả như mong muốn.
1.3. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO VÙNG ĐỒNG BÀO KHMER:
1.3.1 Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xóa đói giảm
nghèo đồng bào Khmer ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL):
1.3.1.1. Chính sách kinh tế - xã hội::
* Thực hiện Chương trình 135: Chương trình 135 là chương trình xóa đói
giảm nghèo và xây dựng kết cấu hạ tầng, được triển khai thực hiện ở các khu vực
đặc biệt khó khăn, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, vùng dân tôc khó khăn, Ở
khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long chương trình 135 bao gồm các dự án:
Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng được triển khai thực hiện ở 195 xã đặc biệt
khó khăn và xã biên giới. Tổng số vốn đầu tư từ năm 1999 đến năm 2003 là
301.111 triệu đồng [16;Tr13].
Dự án xây dựng trung tâm cụm xã triển khai thực hiện 37 trung tâm. Tổng
số vốn đầu tư từ năm 2001 đến nay 93.655 triệu đồng.
Dự án quy hoạch dân cư ở những nơi cần thiết: Nhiệm vụ này đã được thực
hiện bằng lòng ghép với các chương trình, dự án kết hợp với xây dựng cơ sở hạ tầng
của chương trình 135 để xấp xếp lại dân cư. Cùng với sự hỗ trợ kịp thời kinh phí
của Nhà nước, địa phương tích cực chủ động tạo quỹ đất ở, nhà ở cho những hộ - 16 -
nghèo, tổ chức quy hoạch, di dời, bố trí các tuyến, cụm dân cư đảm bảo nơi ăn ở, đi
lại, sinh hoạt ổn định và tạo môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất nâng cao
dần mức sống cho đồng bào.
Dự án ổn định phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp gắn với chế biến
tiêu thu sản phẩm được thực hiện bằng nhiều biện pháp trong chương trình 135. Các
công trình đện, đường, trường, trạm , nước sạch, chợ xây dựng đến đâu là ổn định
đời sống kinh tế xã hội, tạo điều kiện sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đến đó. Hỗ trợ
cho những hộ thiếu đất, không có đất do nhiều lý đã cầm cố nay có nhu cầu và đủ
khả năng, điều kiện để sản xuất đảm bảo cuộc sống, được chuộc lại đất sản xuất.
Đồng thời chính quyền địa phương phải có những biện pháp chế tài, quản lý tốt
không để việc tái sang, bán, cầm cố đất đai trong đồng bào Khmer nghèo. Những hộ
có sức lao động mà thiếu hoặc không có đất (do đã sang bán) thì nên bố trí vào các
nông, lâm trường, các khu kinh tế mới tập trung của địa phương và nên bố trí xen kẽ
với người Kinh để hỗ trợ học hỏi lẫn nhau về kinh nghiệm sản xuất. Những hộ
không có khả năng sản xuất nông nghiệp thì nên tạo điều kiện cho đồng bào chuyển
sang các ngành nghề khác phù hợp với khả năng, sức khoẻ, điều kiện và tập quán
môi trường của từng hộ, từng địa phương. Những hộ có hoàn cảnh khó khăn, neo
đơn, những hộ thuộc diện chính sách thì hỗ trợ theo chế độ chính sách hiện hành và
khả năng của chính địa phương mình để đồng bào có cuộc sống ổn định.
Ngày 20/7/2004 Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định
134/2004/QĐ-TTg. về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước
sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn. Đây là một
quyết định đúng đắn, kịp thời, là một cơ hội tốt để tạo đà cho vùng đồng bào Khmer
có điều kiện vượt qua đói nghèo. Nhưng để triển khai thực hiện thành công quyết
định của Chính phủ, ngoài việc đầu tư, hỗ trợ về nhân tài vật lực của Trung ương,
đòi hỏi mỗi địa phương phải có một hệ thống các giải pháp xoá đói giảm nghèo
đồng bộ và khả thi
Quy hoạch lại đất đai, nâng cấp đồng ruộng, xây dựng nhiều vùng cây
chuyên canh đa dạng có giá trị kinh tế cao. Tổ chức hướng dẫn cho đồng bào
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển đàn gia súc, gia cầm có thế mạnh - 17 -
tại địa phương. Chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh kỹ thuật chăn
nuôi trồng trọt, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, tăng cường đào tạo, hướng
dẫn, phát triển một số nghề tiểu thủ công nghiệp. Kêu gọi và có chính sách ưu đãi
nhà đầu tư xây dựng các xí nghiệp, nhà máy có quy mô vừa và nhỏ để thu hút nhiều
lao động thủ đông, lao động nhàn rỗi, tăng thu nhập và tiêu thụ được sản phẩm cho
nông dân.
Tạo điều kiện và khuyến khích các hộ buôn bán nhỏ, làm dịch vụ, giúp đỡ
cách làm ăn, giải quyết việc làm. Hỗ trợ vay vốn cho xuất khẩu lao động, để từng
bước chuyển dịch dần từ lao động nông nghiệp sang đa ngành nghề khác (cả trong
và ngoài tỉnh) đồng thời giáo dục cho đồng bào có ý thức tự lực, tự cường vươn lên,
không trông chờ ỷ lại vào Nhà nước.
Đẩy mạnh kinh tế hợp tác xã, kinh tế trang trại, kinh tế tập thể, Công ty cổ
phần nông dân với nhiều loại hình đa dạng, khác nhau. Vận động các doanh nghiệp,
cơ quan, đoàn thể trong và ngoài tỉnh nhận kết nghĩa, đỡ đầu, hỗ trợ, bảo trợ, giúp
đỡ trước mắt và lâu dài đối với các xã đặc biệt khó khăn.
Dự án đào tạo cán bộ xã, làng, phum, sóc là một trong những nhiệm vụ chủ
yếu của Chương trình 135 và cũng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo thực hiện hiệu
quả chương trình. Tổng vốn đầu tư 1.958 triệu đồng.
* Chính sách hỗ trợ hộ dân tộc đặc biệt khó khăn: Tổng số vốn đầu tư là
68.307 triệu đồng đã góp phần giải quyết phần khó khăn trong đồng bào.
* Chính sách trợ giá, trợ cước: Tổng số vôn đầu tư từ năm 1998 đến nay là
40.667 triệu đồng, trợ giúp giống cây con và trợ cước một số măt hàng thiết yếu.
Qua đó giúp đồng bào dân tộc nghèo có điều kiện sản xuất.
* Chính sách trợ vốn vay: Vốn ưu đãi để phát triển nông nghiệp được giảm
lãi suất 15% so với mức lãi xuất chung, vốn vay từ quỷ quốc gia giải quyết việc
làm, ngân hàng chính sách được triển khai. Từ nguồn vốn này đã giúp đồng bào
Khmer sản xuất có hiệu quả.
* Chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp:Thực hiện Quyết
định số 199/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001, từ năm 2001 đến nay, người nghèo nói
chung, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số theo tiêu chuẩn nghèo tại Quyết định - 18 -
số 1143/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ Lao đông Thương Binh Và Xã Hội
và đồng bào tại các xã thuộc chương trình 135 được miễn thuế sử dung đât nông
nghiệp. Các đối tượng không thuộc tiêu chuẩn trên được giảm 50%.
Các địa phương xem cấp nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách, trong
đồng bào dân tộc. Thực hiện tinh thần Quyết định 173/2001/QĐ-TTg, đến nay Trà
Vinh hổ trợ 7.101 căn, Sóc trăng 5.567 căn, Kiên Giang 3000 căn, An Giang 2.585
căn, Cần thơ 1.425 căn nhà tình thương cho đồng bào Khmer nghèo bức xúc về nhà
ở [16;Tr15].
1.3.1.2. Chính sách về văn hóa giáo dục - đào tạo:
Ưu tiên đầu tư kịp thời, thích đáng cho hệ thống nhà trẻ, trường mẫu giáo và
chuẩn hoá trường học các cấp trong vùng đồng bào Khmer; mở rộng và phát triển
Trường bổ túc văn hoá Pali Trung cấp Nam bộ. Đầu tư xây dựng kịp thời trường
dạy nghề của các tỉnh và Trung tâm dạy nghề tại các huyện, thị để trẻ em trong độ
tuổi đến trường, thực hiện tốt phổ cập tiểu học và trung học cơ sở, khuyến khích hỗ
trợ học sinh theo học các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại
học. Mở rộng đối tượng, địa bàn và thực hiện tốt chính sách cử tuyển trong vùng
đồng bào Khmer. Có kế hoạch sẵn sàng tiếp nhận bố trí việc làm phù hợp kịp thời
cho những học sinh, sinh viên Khmer tốt nghiệp ra trường trở về quê hương và
những sinh viên từ những địa phương khác tự nguyện đến làm việc tại địa phương,
để họ có điều kiện phát huy hết khả năng, kiến thức đã học trong nhà trường, phục
vụ nhân dân, đất nước.
Hệ thống các trường Phổ Thông dân Tộc Nội Trú ngày càng được mở rộng
và từng bước nâng cáo chất lượng. chỉ tiêu tuyển sinh vào các trường dự bị Đại học,
Đại học Cao đẳng trung học chuyên nghiệp ngày càng tăng. Chinh sách về miễn
giảm học phí, bồi dưởng giáo viên dạy chử dân tộc ở bậc tiểu học được các
ngànhchức năng và một số địa phương quan tâm thực hiện. Cấp cho không tập vở
đối với học sinh nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn và việc cấp sách giáo khoa học
chử dân tộc cũng được các địa phương quan tâm thực hiện. - 19 -
Chú trọng xây dựng phong trào gia đình văn hoá mới. Tuyên truyền giáo dục
kiến thức pháp luật phổ thông có liên quan đến đời sống hàng ngày như: Luật dân
sự, Hình sự, Giao thông, Đất đai, Hôn nhân - Gia đình… và những chính sách có
liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của đồng bào.
1.3.1.3. Chính sách y tế:
Chỉ thị 06-CT /TW ngày 22/01/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa
IX về việc củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở và Quyết định 139/2002/QĐ-
TT ngày 15/10/2002 của thủ Tướng chính phủ về việc khám chửa bệnh cho người
nghèo trong đó có đồng bào Khmer nghèo cũng được hưởng chính sách này.
Trong quyết định 173/2001/QĐ-TTg ngày 16/11/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về phát triển kinh tế vùng ĐBSCL giai đoan 2001 – 2005 có quy định đồng bào
dân tộc thiểu số được miễn phí tiền khám, chửa bệnh tại các trạm y tế, trung tâm y
tế, bệnh viện.
Đến nay 100% huyện ở 8 tỉnh vùng dân tộc Khmer ĐBSCL điều thành lập
trung tâm y tế. Đồng bào ở các xã thuộc Chương trình 135 được cấp một số thuốc
trị bệnh miễn phí tại trạm y tế xã, cấp cho không muối iốt
1.3.1.4. Chính sách về văn hóa thông tin:
Đầu tư xây dựng Bảo tàn văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng và Trà
Vinh. Các đoàn chuyên nghiệp của tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang; đội văn
nghệ tỉnh Bạc Liêu và một số đội văn nghệ không chuyên ở một số tỉnh được đầu tư
hoạt động.
Về truyền hình: có trương trình tiếng Khmer của Đài Truyền hình Cần Thơ,
thời lượng 120 phút/ngày; chương trình truyền hình tiếng Khmer tỉnh Sóc Trăng,
Trà Vinh, Bạc Liêu, Kiên Giang, An Giang, thời lượng 30 đến 45 phút/ngày
[16;Tr5].
Về phát thanh: có chương trình tiếng Khmer của Đài Tiếng nói Việt Nam ,
thời lượng 45 phút/chương trình, phát 3 lần/ngày; trương trình phát thanh tiếng
Khmer tỉnh Sóc Trăng, trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, thời lượng 30 đến 45
phút/chương trình,phát sóng từ 2 đến 3 lần/ngày. - 20 -
Về báo chí: Có tờ báo tiếng Khmer tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh. Báo Sóc
Trăng có 4 trang, phat hành tuần/kỳ, số lượng 1300 bản/kỳ. Báo Trà Vinh có 8 trang
phát hành 10 ngày/kỳ, số lượng 100 bản/kỳ. Ngoài ra còn có 17 tờ báo và tạp chí
chuyên đề Dân tộc và Miền núi của một số Bộ nghành trung ương cấp phát miễn
phí đến các tỉnh thuộc Chương trình 135.
Chính sách cấp không thu tiền máy thu thanh được triển khai thực hiện tại
các vùng dân tộc nói chung, trong đó có đồng bào dân tộc Khmer từ nhiều năm
qua.
Lễ hội truyền thông được chính quyền địa phương quan tâm tổ chức năm 2002
- 2003 Bộ Văn hóa thông tin còn tổ chức ngày hội văn hóa khmer ở Sóc Trăng,
Kiên Giang và thủ đô Hà Nội để Phục vụ đông đảo quần chúng.
Nhìn chung văn hóa thông tin đã góp phần đáng kể trong xóa đói giảm nghèo
nâng cao đời sống vật chất tin thần, tuyên truyền và vận động đồng bào nghiêm
chỉnh thực hành chủ trương chính sách của đảng và pháp luật nhà nước.
Từ thực trang đời sống kinh tế xã hội và các chính sách giàm nghèo nâng cao
đời sông vật chất và tinh thần sống vùng đồng bào dân tộc Khmer, Đảng và Nhà
nước đã đề ra những định hướng để hổ trợ cho đồng bào dân tôc Khmer như sau:
1.3.2. Định hướng hỗ trợ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
cộng đồng dân tộc Khmer ở ĐBSCL:
Đảng bộ và chính quyền các địa phương cần thực hiện tốt Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 7 khoá IX, phần 2 về công tác dân tộc và Quyết định số
122/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chương trình hành động của Chính
phủ về thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá IX, phần 2 về công tác
dân tộc.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 68/CT-TW của Ban Bí thư Trung
ương Đảng khoá VI về công tác xóa đói với đồng bào dân tộc Khmer.
Tiếp tục triển khai thực hiện chương trình 135, Chinh sách trợ giá cước,
chính sách hổ trợ hộ dân tộc đặc biệt khó khăn… - 21 -
Tiếp tục thực hiện Quyết định số 173/2001/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính
phủ về phát triển kinh tế- xã hội vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long giai đoạn 2001-
2005.
Thực hiện tốt Chỉ thị 14/2003/CT-TTg, của Thủ tướng Chính phủ về
phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc
phòng vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long thời kỳ 2001-2010
Tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả Chương trình 135, tích cực phối hợp,
lồng ghép với các chương trình kinh tế - xã hội khác trên địa bàn; tập trung ưu tiên
đầu tư các nguồn vốn như: tín dụng của các ngân hàng, vốn quỹ quốc gia giải quyết
việc làm, quỹ xoá đói giảm nghèo, vốn hỗ trợ đặc biệt khó khăn, vốn từ các đoàn
thể, các chương trình dự án… đảm bảo cho các hộ Khmer nghèo được hỗ trợ vay
vốn làm ăn bằng nhiều hình thức, theo từng chu kỳ sản xuất. Bên cạnh việc cho vay
vốn, cần phải tổ chức hướng dẫn đồng bào cách làm ăn sinh lợi. Phân kỳ đầu tư, xây
dựng mô hình thí điểm và rút kinh nghiệm kịp thời để triển khai thực hiện đại trà.
Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo các cấp phải theo dõi quản lý thống nhất, tập trung
các nguồn vốn, không để tình trạng đầu tư phân tán, chồng chéo, thất thoát, kém
hiệu quả. Quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng có liên quan trực tiếp đến sản xuất, lưu
thông kinh tế vùng đồng bào dân tộc để tạo ra hiệu quả kinh tế nhanh.
Từ những định hướng trên Đảng và nhà nước Việt nam đã đưa ra các biện
pháp cơ bản giúp giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khmer.
1.3.3. Các giải pháp về xóa đói giảm nghèo đồng bào Khmer ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL):
Từ thực trạng và định hướng nêu trên, muốn thực hiện tốt hơn nữa công tác
xóa đói giảm nghèo trong cộng đồng dân tộc Khmer ở Đồng Bằng Sông Cửu Long,
các địa phương trong khu vực cần tập trung thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:
1. Một là chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng đa canh.
Trước hết, phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp theo một
tỷ lệ cân đối hợp lý. Cần có một qui hoạch chi tiết cho từng vùng, để xác định một
cách cụ thể về cơ cấu cây trồng, trên cơ sở lợi thế đặc thù của mỗi vùng và sự phát
triển chung của cả khu vực. Nơi nào chuyên canh trồng lúa, nơi nào trồng màu, làm - 22 -
vườn… như vậy mới có thể hướng dẫn và định hướng bước đi cho các hộ nghèo,
vùng nghèo đồng bào Khmer. Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng nên
hướng cho các hộ nghèo đất ít, nếu có điều kiện thì có thể lập vườn, làm rẫy, trồng
màu.
Hai là, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý giữa trồng trọt với chăn
nuôi. Người nông dân Khmer ĐBSCL, ngoài tập quán sản xuất truyền thống ngoài
cây lúa nước, thì những ngành nghề còn lại là không đáng kể. Do đó, đối với những
cư dân ở ven sông Tiền, sông Hậu và các vùng ven biển như Trà Vinh, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, Cà Mau… các địa phương nên hướng dẫn các hộ nghèo tận dụng và khai
thác triệt để mặt nước ao hồ, sông rạch các vùng nước lợ, nước ngọt, nước mặn để
đánh bắt hay nuôi trồng thủy hải sản.
Ba là, phát triển tiểu thủ công nghiệp, khôi phục và phát huy các ngành nghề
truyền thống như: đồ gốm, dệt chiếu, thổ cẩm, đường thốt nốt, làm đèn sáp trắng,
đan thúng rổ… chưa được phát huy đầy đủ. Vì thế, cần có định hướng đúng đắn về
làng nghề, ngành nghề ở nông thôn để có những giải pháp thích hợp cho mỗi địa
phương. Gắn sự phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp với việc giải quyết lao
động tại chỗ, tại nhà sẽ làm giảm thiểu tỷ lệ “nông nhàn” trong đồng bào Khmer. Về
qui mô, nên đa dạng hóa mô hình: vừa, nhỏ và ở hộ gia đình, cần chú trọng những
mặt hàng có lợi thế và nổi tiếng trên thị trường trước đây. Khôi phục và phát triển
các ngành, làng nghề truyền thống tất yếu dẫn đến giải quyết tốt việc làm, tăng thu
nhập, song vấn đề khó khăn nhất hiện nay là đầu ra của sản phẩm. Nên các địa
phương phải hết sức năng động tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước cho sản
phẩm.
Bốn là, mở rộng mạng lưới dịch vụ vùng nông thôn (phát triển trung tâm xã).
Việc tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng đồng bào dân tộc Khmer và xây
dựng trung tâm xã cho các xã đặc biệt khó khăn, thực chất là nâng dần từng bước
chất lượng sống. Thúc đẩy người dân sớm đến với các dịch vụ cơ bản của xã hội.
Đồng thời, đó cũng là một trong những mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa –
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét