Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

SỰ THÂM NHẬP CỦA TIẾNG ANH VÀO TIẾNG VIỆT TRÊN MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG Ở VIỆT NAM

QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
YZ

Chúng tôi trình bày luận văn theo những quy ước sau:
- Phần chính của luận văn trình bày thành các chương, các mục lớn của
các chương được trình bày theo thứ tự các số Ả-Rập (1, 2, 3…)
- Các ví dụ được trình bày bằng loại chữ in nghiêng, in đậm.
Ví dụ:
“Không phải chỉ vài năm gần đây thì đồ handmade mới hút hồn
giới trẻ…”
- Các lời trích dẫn từ tài liệu tham khảo và các ví dụ từ các phương tiện
truyền thông đại chúng được quy ước như sau:
 Trong dấu ngoặc vuông [ ] đặt sau các trích dẫn gồm các chi tiết:
số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo, số trang trích dẫn.
Ví dụ:
[30, tr.88].
 Trong dấu ngoặc vuông [ ] đặt sau các ví dụ gồm những chi tiết :
tên phương tiện truyền thông đại chúng, số thứ tự trong nguồn ngữ liệu.
Ví dụ:
[Báo Hoa Học Trò, NNL 17].

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ luôn gắn bó với xã hội loài người. Với tư cách là công cụ giao
tiếp, mỗi ngôn ngữ có quan hệ trực tiếp với cái xã hội mà trong đó nó được
xem là công cụ giao tiếp của xã hội đó. Vì thế, những biến động của xã hội
luôn có tác động đến ngôn ngữ. Ở xã hội Việt Nam, giai đoạn đổi mới với
những chương trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa được đánh dấu bởi những
biến đổi diễn ra trong nhiều lónh vực của cuộc sống. Những biến đổi đó đã tác
động trực tiếp đến tiếng Việt và được thể hiện khá rõ trong ngôn ngữ này. Một
trong những biến đổi đáng kể của tiếng Việt là sự gia tăng rất nhanh những từ
ngữ vay mượn tiếng Anh. Cũng giống như hàng loạt từ Hán Việt du nhập vào
tiếng Việt trong thời kỳ độc lập tự chủ, xây dựng đất nước trước đây, trong thời
kỳ hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước hiện nay, phạm vi vay mượn các từ
ngữ tiếng Anh rất rộng, bao gồm những từ ngữ dùng trong sinh hoạt hàng ngày
cho đến các lónh vực giải trí, khoa học kỹ thuật và kinh tế… Những từ ngữ này
lại được biểu đạt trên những phương tiện truyền thông đại chúng như báo in,
phát thanh, truyền hình, Internet…. Vì thế vai trò quan trọng của chúng ngày
càng được nhấn mạnh, trở thành đề tài trung tâm của nhiều công trình nghiên
cứu trong giới Việt ngữ học trong những năm gần đây. Tuy nhiên, tồn tại một
thực tế là, nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến từ vay mượn tiếng
Anh, đã đứng trên quan điểm và phương pháp của ngôn ngữ học so sánh, xem
việc so sánh, đối chiếu tiếng Anh với tiếng Việt theo những tiêu chí nào đó là
nhiệm vụ trung tâm cần phải giải quyết, mà quên rằng vấn đề từ ngữ vay mượn
tiếng Anh trong tiếng Việt là vấn đề của ngôn ngữ học xã hội, so sánh, đối
chiếu nếu có, cũng chỉ là một trong số những phương pháp góp phần làm sáng
tỏ những đặc điểm của từng loại ngôn ngữ trong quá trình tiếp xúc với nhau mà
thôi, còn nhiệm vụ chính cần phải giải quyết vẫn là nghiên cứu đặc điểm về
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp cũng như khả năng hành chức của từ ngữ vay mượn
tiếng Anh trong hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt. Bởi lẽ, một khi đã thâm nhập
vào tiếng Việt, những từ ngữ này đã có những biến đổi nhất đònh cho phù hợp
với quy luật của tiếng Việt, chứ không giống như những từ ngữ tiếng Anh bản
đòa mà các nhà ngôn ngữ học so sánh thường lấy làm đối tượng để đối chiếu
với tiếng Việt.
Có thể nói rằng, việc nghiên cứu về các từ ngữ vay mượn tiếng Anh
trong tất cả các lónh vực của đời sống xã hội nói chung, trên các phương tiện
truyền thông đại chúng nói riêng là một vấn đề thuộc lónh vực ngôn ngữ học xã
hội, và do đó, vẫn còn khá là mới mẻ đối với giới Việt ngữ học trong những
năm gần đây. Trước đây, cũng đã có bài viết đề cập đến vấn đề này. Tuy

2
nhiên, những vấn đề của ngôn ngữ học xã hội là những vấn đề động, luôn luôn
biến đổi theo sự tác động của xã hội. Những công trình nghiên cứu về nó cũng
phải có sự bổ sung, phát triển không ngừng để đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Đây là lí do thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài này trên cơ sở kế thừa thành
tựu của những công trình đi trước.
2. Lòch sử nghiên cứu vấn đề, mục đích nghiên cứu
Tiếng Anh đang ngày càng trở nên thông dụng trên toàn thế giới và số
người nói tiếng Anh với tư cách không phải tiếng mẹ đẻ cũng đang gia tăng rất
nhanh nhất là trong thời đại hội nhập quốc tế và bùng nổ của Internet ngày
nay. Tiếng Anh cũng được coi là thứ ngôn ngữ chung của nhiều lónh vực, từ
chính trò, khoa học kỹ thuật đến văn hóa, nghệ thuật và kinh doanh. Ở bình
diện ngôn ngữ học, tiếng Anh cũng đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của
các nhà ngôn ngữ học xã hội khi nghiên cứu về những ảnh hưởng của nó đối
với các ngôn ngữ khác trên phạm vi toàn cầu. Trên thế giới, trước tiên phải kể
đến hai công trình tiêu biểu của tác giả David Crystal là “Cambridge
Encyclopedia of the English language”(Bách khoa toàn thư Cambridge của
tiếng Anh, 1995) và “English as a global language” (Tiếng Anh với tư cách là
ngôn ngữ toàn cầu, 1997). Trong hai công trình này, tác giả David Crystal đã
lần đầu tiên đưa ra những số liệu thống kê đáng tin cậy về số người trên thế
giới sử dụng tiếng Anh với tư cách là một ngoại ngữ hay ngôn ngữ thứ hai.
Ngoài ra, còn có một số tác giả khác, trong các nghiên cứu của mình về tiếng
Anh, cũng tỏ ra rất quan tâm đến vai trò của ngôn ngữ này trong tương lai,
chẳng hạn như Graddo D. với “The future of English"?” (1997), Soukhanov. A
với “The King’s English Its Ain’t” (2003).
Ở Việt Nam, những tác động trực tiếp của tiến trình đổi mới, mở cửa,
hội nhập và giao lưu quốc tế cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã
tạo điều kiện để tiếng Anh thâm nhập vào tiếng Việt mạnh mẽ, hình thành nên
một lớp từ ngữ vay mượn có phạm vi sử dụng rộng rãi trong mọi lónh vực của
đời sống xã hội Việt Nam. Bàn về tiếng Anh, ở Việt Nam trong những năm
gần đây đã xuất hiện một số bài viết và công trình tiêu biểu như :
1. [17, tr. 72-74];
2. [19, tr.42-43];
3. [21, tr. 37-39];
4. [28];
5. [54].
Trong các tác phẩm này, các tác giả đã quan tâm đến thực trạng giao
thoa, vay mượn và lai tạp giữa tiếng Anh và tiếng Việt trên cơ sở lý thuyết tiếp

3
xúc ngôn ngữ Anh – Việt, từ đó đưa ra dự báo cho những thực trạng này.
Nhưng, đây mới chỉ là một số nghiên cứu ban đầu chứ chưa có tính hệ thống,
và quan trọng là chưa có một giải pháp thỏa đáng để giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt trước sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của tiếng Anh. Gần đây,
đáng kể nhất là có tác phẩm “Từ ngoại lai trong tiếng Việt” của tác giả
Nguyễn Văn Khang (2007). Với những kết quả ghi nhận được từ quá trình điều
tra việc sử dụng từ ngữ tiếng Anh trong mọi lónh vực đời sống hàng ngày của
người Việt, tác giả này đã giúp cho chúng ta có những phát hiện mới mẻ về sự
tồn tại của lớp từ vay mượn tiếng Anh trong tiếng Việt. Tuy nhiên, do phạm vi
nghiên cứu khá rộng (nghiên cứu cả từ mượn Hán và từ mượn Pháp) nên thực
trạng thâm nhập của tiếng Anh vào tiếng Việt, tiêu biểu là trên các phương
tiện truyền thông đại chúng, vẫn chưa được khảo sát một cách toàn diện và
triệt để.
Kế thừa những kết quả của các công trình đi trước, chúng tôi thực hiện
luận văn này với mong muốn:
- Cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho việc đề ra những chính sách
ngôn ngữ phù hợp, giải quyết thỏa đáng thực trạng thâm nhập của tiếng Anh
vào tiếng Việt trên một số phương tiện truyền thông đại chúng nói riêng, trong
tất cả các lónh vực của đời sống xã hội ở Việt Nam nói chung;
- Góp phần thiết thực vào việc giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng
Việt.
3. Ý nghóa của đề tài
a. Về phương diện lý luận
Nghiên cứu về sự thâm nhập của tiếng Anh vào tiếng Việt trên một số
phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam là nghiên cứu về một vấn đề
cụ thể, còn khá mới mẻ trong lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ nói riêng, trong lónh
vực ngôn ngữ học xã hội nói chung. Trên cơ sở ngữ liệu sưu tầm được, bằng
việc phối hợp những phương pháp nghiên cứu khác nhau, luận văn góp phần
hoàn chỉnh và bổ sung những lý thuyết có liên quan đến ngôn ngữ học xã hội.
b. Về phương diện thực tiễn
Với những kết quả đạt được từ quá trình nghiên cứu, luận văn mong
muốn đóng góp một tiếng nói thiết thực vào việc cảnh báo về tình trạng “ô
nhiễm” của tiếng Anh đối với tiếng Việt từ đó giúp cho người Việt, nhất là giới
trẻ, có đònh hướng đúng đắn đối với việc sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp
hàng ngày. Đồng thời, về một khía cạnh nào đó, luận văn cũng có những đóng
góp tích cực cho công tác giảng dạy tiếng nước ngoài, tiêu biểu là dạy tiếng
Anh ở Việt Nam.

4
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn bàn về sự thâm nhập của tiếng Anh vào tiếng Việt trên một số
phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam. Đây là một vấn đề thuộc lónh
vực ngôn ngữ học xã hội vì thế phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử dụng là
phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, trong đó tất cả những vấn đề
có liên quan đến tiếng Việt và tiếng Anh đều được chúng tôi tiếp cận và xử lí
không chỉ từ lăng kính của ngôn ngữ mà cả của xã hội, tiêu biểu là xã hội Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
đã phối hợp sử dụng các phương pháp khác như điền dã, thống kê và phân loại
ngữ liệu, so sánh, đối chiếu. Những phương pháp này cho phép chúng tôi có
thể khảo sát một cách cụ thể đối với từng loại ngữ liệu sưu tầm được từ các
phương tiện truyền thông đại chúng như báo in, truyền hình và Internet, trên cơ
sở đối chiếu chúng với thực tế sử dụng ngoại ngữ trong đời sống hàng ngày
hiện nay. Cuối cùng, để có thể rút ra được những nhận xét có tính nhất quán và
toàn diện về thực trạng thâm nhập của tiếng Anh vào tiếng Việt trong các lónh
vực của đời sống xã hội nói chung, trên các phương tiện truyền thông đại
chúng nói riêng, chúng tôi đã vận dụng phương pháp nghiên cứu phân tích ngữ
nghóa – ngữ dụng.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài Mục lục (2 trang), Quy ước trình bày (1 trang), Tài liệu tham
khảo (6 trang), Nguồn ngữ liệu (4 trang), Phụ lục (28 trang), phần chính văn
của luận văn gồm các bộ phận sau:
- Dẫn nhập: Trình bày lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu, lòch sử
nghiên cứu vấn đề, ý nghóa nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
- Nội dung chính: Được trình bày tuần tự theo hướng từ rộng đến hẹp, đi
từ lý thuyết đến thực tế (dùng ngữ liệu sưu tầm được từ các phương tiện truyền
thông đại chúng có đối chiếu với thực tế giao tiếp hàng ngày để tìm hiểu thực
trạng thâm nhập của tiếng Anh vào tiếng Việt ở Việt Nam hiện nay). Phần này
được chia thành hai chương:
 Chương 1: Trình bày những vấn đề cơ bản mang tính lý thuyết của
ngôn ngữ học xã hội như lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ với các hệ quả là hiện
tượng giao thoa, vay mượn và lai tạp ngôn ngữ; lý thuyết về truyền thông với
những khái niệm cơ bản về truyền thông, truyền thông đại chúng và các
phương tiện truyền thông đại chúng; vai trò của tiếng Anh đối với thế giới, khu
vực Đông Nam Á và Việt Nam; những nguyên nhân dẫn đến sự thâm nhập của
tiếng Anh vào tiếng Việt cũng như những bình diện thâm nhập.

5
 Chương 2: Đi vào khảo sát thực trạng thâm nhập của tiếng Anh vào
tiếng Việt trên 3 phương tiện truyền thông đại chúng tiêu biểu là báo in, truyền
hình và Internet. Đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá và đề xuất những
giải pháp có thể có trước thực trạng này.
- Kết luận: Nêu một cách tóm tắt những kết quả bước đầu ghi nhận được
thực trạng thâm nhập của tiếng Anh trên các phương tiện truyền thông đại
chúng tiêu biểu của Việt Nam.

























6
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm tiếp xúc ngôn ngữ
Người làm cho từ tiếp xúc (contact) trở thành thuật ngữ áp dụng rộng rãi,
gây tác dụng kích thích một khuynh hướng ngày càng có ý nghóa quan trọng
cùa ngôn ngữ học hiện đại, là André Martinet. Trong bài “Sự lan truyền ngôn
ngữ và ngôn ngữ học cấu trúc” (Diffusion of Language and Structural
Linguistics) được trình bày như một tham luận tại cuộc họp của Hội nghò Hiệp
hội Ngôn ngữ học (1950) mà sau này được công bố trong Romance Philosophy
(1952), ông đề cập đến tình huống “có liên quan đến một ngôn ngữ lan truyền
cũng như các ngôn ngữ tiếp xúc với nó”. Sau này, thuật ngữ tiếp xúc ngôn ngữ
được phổ biến rộng rãi nhờ sự ra đời của tác phẩm “Languages in Contact –
Findings and Problems” của U. Weinrich (1953) trong đó Martinet là người
viết Lời giới thiệu với lời nhấn mạnh: “…We shall now have to stress the fact
that a linguistic community is never homogenous and harly ever self-
contained” (Một cộng đồng ngôn ngữ không hề có tính đồng chất và vò tất có
một thời kỳ nào đó nó đã từng là một cộng đồng khép kín).
Khi đònh nghóa về tiếp xúc ngôn ngữ, O.S. Akhmanova cho rằng đó là
“sự tiếp hợp nhau giữa các ngôn ngữ do những điều kiện cận kề nhau về mặt đòa
lý, sự tương cận về mặt lòch sử, xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng người
vốn có những thứ tiếng khác nhau phải giao tiếp với nhau” (1966). Còn theo
“Từ điển bách khoa về ngôn ngữ học” (V.N.Jarceva chủ biên, 1990) thì tiếp
xúc ngôn ngữ là “sự tác động giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ, tạo nên ảnh hưởng
đối với cấu trúc và vốn từ của một hay nhiều ngôn ngữ. Những điều kiện xã hội
của sự tiếp xúc ngôn ngữ được quy đònh bởi yêu cầu cần thiết phải giao tiếp lẫn
nhau giữa những thành viên thuộc các nhóm dân tộc và ngôn ngữ do những nhu
cầu về kinh tế, chính trò, văn hóa.v.v. thúc đẩy”. Sự tiếp xúc ngôn ngữ này có
thể là trực tiếp, tức do tình hình cộng cư của những tập thể người nói các thứ
tiếng khác nhau trên cùng khu vực đòa lý (như các vùng nhiều dân tộc ở nước
ta), cũng có thể là gián tiếp, tức thông qua con đường văn tự; nó có thể diễn ra
giữa các ngôn ngữ có quan hệ dòng họ, cũng như giữa các ngôn ngữ khác dòng
họ.
Ví dụ:
Nhìn vào tiếng Việt có thể thấy có ba đợt tiếp xúc lớn giữa tiếng Việt
với các ngôn ngữ khác đưa đến sự xuất hiện của các đơn vò từ vựng ngoại lai
trong tiếng Việt:

7
(1) Qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, với sự tiếp xúc giữa hai nền văn hóa
Hán và Việt, văn hóa Trung Hoa (trong đó có ngôn ngữ) đã du nhập vào Việt
Nam, từ đó làm xuất hiện ồ ạt các từ mượn Hán mang dấu ấn của văn hóa văn
minh Trung Hoa. Chữ Hán xuất hiện được dùng như một văn tự đã đưa tiếng
Việt trở thành ngôn ngữ thành văn và có ảnh hưởng toàn diện đối với tiếng
Việt ngữ âm, ngữ pháp đến từ vựng. Đặc biệt, với cách đọc Hán Việt, các từ
mượn Hán đã có vai trò quan trọng đối với sự tạo lập các từ mới.
(2) Đợt tiếp xúc ngôn ngữ thứ hai là sự tiếp xúc giữa tiếng Pháp và tiếng
Việt trong bối cảnh chính trò 80 năm đô hộ của thực dân Pháp. Đợt tiếp xúc này
để lại trong tiếng Việt một số lượng lớn các từ ngữ vay mượn Pháp mang tải
những khái niệm mới về khoa học – kó thuật và văn hóa văn minh phương Tây.
(3) Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, đợt tiếp xúc ngôn ngữ quan
trọng tiếp theo chính là sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Anh. Cuộc tiếp xúc
này không chỉ để lại trong tiếng Việt rất nhiều thuật ngữ khoa học bằng tiếng
Anh mang tính quốc tế mà còn đang làm lung lay khái niệm gọi là “đồng hóa”
mang tính truyền thống khi nghiên cứu về từ ngữ vay mượn.
Như vậy, tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng ngôn ngữ phổ biến trong đời
sống xã hội giao tiếp của con người và do đó nó là hiện tượng phổ biến đối với
mọi ngôn ngữ trên thế giới. Nó xuất hiện khi con người (bao gồm cả cá nhân
hay cộng đồng) sử dụng hai hay nhiều ngôn ngữ. Hay nói cách khác, ở đâu có
sự hiện diện của hiện tượng song ngữ hoặc đa ngữ dưới tác động của các nhân
tố xã hội thì ở đó tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra, giống như lời nhận xét của Einar
Haughen trong tác phẩm “Cái mới trong ngôn ngữ học” (1973): “ Mỗi một nhà
ngôn ngữ học sớm muộn gì rồi cũng đều phải đụng chạm đến các vấn đề có liên
quan đến sự tiếp xúc ngôn ngữ”
1.1.2. Đặc điểm tiếp xúc ngôn ngữ
Theo tác giả Nguyễn Văn Khang [35, tr. 29-35], tiếp xúc ngôn ngữ có
những đặc điểm cơ bản sau:
(1) Tiếp xúc ngôn ngữ bắt đầu từ học tập. Con người muốn biết từ hai
ngôn ngữ trở lên thì phải học. Bởi ngôn ngữ tồn tại trong bộ não của con người,
do đó khi hai hay nhiều ngôn ngữ cùng tồn tại trong bộ não của một người thì
sẽ tạo nên sự tiếp xúc. Vì thế mới nói tiếp xúc ngôn ngữ về bản chất là “học
ngôn ngữ” theo cách nói của ngôn ngữ học truyền thống.
Tuy nhiên, cũng có thể thấy, có người không học thêm ngôn ngữ khác,
nhưng họ lại có thể sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ đó. Trường hợp này được
xem như là kết quả của quá trình khuếch tán ngôn ngữ. Tiếp xúc ngôn ngữ
trước hết xảy ra ở một bộ phận thành viên xã hội, kết quả tiếp xúc sẽ được các

8
thành viên xã hội mở rộng ra toàn xã hội. Tiếp xúc dựa vào việc học tập ngôn
ngữ của một bộ phận thành viên xã hội mà không đòi hỏi tất cả mọi người
tham gia học một ngôn ngữ khác mới coi là tiếp xúc ngôn ngữ. Như vậy là cần
phải tách sự nảy sinh tiếp xúc với việc sử dụng kết quả tiếp xúc.
(2) Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ cũng là nhắc đến hai hàm ý:
• Sự tiếp xúc ở mặt cấu trúc, hay còn gọi là sự tiếp xúc trong nội bộ
ngôn ngữ. Đây chính là mối quan hệ tương tác, sự tác động lẫn nhau và ảnh
hưởng lẫn nhau giữa hai hoặc hơn hai ngôn ngữ trong bộ óc của một người. Sự
tiếp xúc này làm nảy sinh ảnh hưởng về mặt cấu trúc. Hệ quả của sự tiếp xúc
này là sự vay mượn hay thẩm thấu các thành phần cũng như các phương thức,
thậm chí làm thay đổi các quy tắc, thay đổi hệ thống và cấu trúc, đến mức có
thể gây nên sự pha trộn giữa hai ngôn ngữ làm nảy sinh ra một ngôn ngữ mới.
• Sự tiếp xúc bên ngoài của ngôn ngữ, hay còn gọi là sự tiếp xúc ở mặt
ứng dụng. Đó là việc một người sử dụng hai hoặc hơn hai ngôn ngữ, làm nên
hiện tượng đa ngữ trong sử dụng (thay thế nhau hoặc cùng sử dụng).
(3) Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ cũng là nói đến tính đònh hướng của
nó, hay nói cách khác là “hướng tác động”, “hướng ảnh hưởng” giữa các ngôn
ngữ : có thể đó là sự ảnh hưởng của ngôn ngữ đang sử dụng tới ngôn ngữ tiếp
thu hoặc ngược lại, có khi lại là sự tác đôïng tương hổ. Tính phương hướng này
được quyết đònh ở hàng loạt các nhân tố như tính mục đích của việc học tập,
tần số ứng dụng, mức độ thuần thục, bối cảnh văn hóa… Ví dụ, trong một vùng
đa ngữ, các ngôn ngữ tuy là bình đẳng với nhau nhưng có một ngôn ngữ nổi lên
có quyền lực như một “ngôn ngữ vùng” thì hướng tác động trong tiếp xúc sẽ
thiên về đơn hướng: ngôn ngữ vùng kia sẽ ảnh hưởng tới các ngôn ngữ vùng
khác mạnh hơn là sự ảnh hưởng ngược lại hoặc là sự ảnh hưởng giữa các ngôn
ngữ còn lại.
(4) Trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, do có sự tác động, mối quan hệ
và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ có thể nảy sinh một trạng thái biến
thể, đó là hình thức interlanguage (ngôn ngữ trung gian). Thông thường, đây là
hình thức biến thể do ảnh hưởng từ ngôn ngữ cơ sở đến ngôn ngữ đích là do
vậy, nền tảng của interlanguage là hệ thống ngôn ngữ của ngôn ngữ đích. Nói
cách khác, đó là hình thức biến thể của ngôn ngữ đích và chòu ảnh hưởng của
ngôn ngữ cơ sở. Cũng có khi hình thức biến thể là ngôn ngữ cơ sở và chòu ảnh
hưởng của ngôn ngữ đích. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận từ góc độ hình thành biến
thể thì giữa chúng có những khác biệt. Biến thể interlanguage được hình thành
từ sự ảnh hưởng của ngôn ngữ cơ sở tới ngôn ngữ đích. Đây là quá trình động
của việc học tập, tiếp thu ngôn ngữ và thường không ổn đònh do phụ thuộc vào
quá trình học tập và sử dụng ngôn ngữ đích. Hình thức ảnh hưởng và thẩm thấu

9
có thể bò triệt tiêu khi mà người học đạt đến trình độ tiếp cận hoàn toàn với
ngôn ngữ đích. Về mặt kết quả, rất có thể interlanguage được “ổn đònh hóa”
tạo ra biến thể hoặc hình thức biến thể cho ngôn ngữ đích. Ví dụ, tiếng Hán
(Hoa ngữ) của người Hoa ở hải ngoại.
(5) Như trên đã nêu, cội nguồn của tiếp xúc ngôn ngữ bắt đầu từ việc
học thêm ngôn ngữ khác. Nhìn từ góc độ tiếp xúc, nếu có sự ảnh hưởng từ
ngôn ngữ cơ sở sang ngôn ngữ đích thì cái gọi là interlanguage sẽ được khuếch
tán và sự khuếch tán này được quyết đònh ở cấu trúc ngôn ngữ, tâm lí ngôn ngữ
và thái độ ngôn ngữ. Ví dụ, trong quá trình học tập và sử dụng ngôn ngữ, người
ta thường sử dụng đan xen các yếu tố của hai ngôn ngữ để giao tiếp. Nếu cách
giao tiếp này lại được mở rộng ra cả cộng đồng nói năng thì sẽ xảy ra tình
trạng xuất hiện các yếu tố của ngôn ngữ này (thường là ngôn ngữ cơ sở) được
“cố đònh” trong ngôn ngữ kia (thường là ngôn ngữ đích). Như vậy, tiếp xúc
ngôn ngữ đã làm nảy sinh hiện tượng vay mượn. Tuy nhiên, điều này thường
chỉ có thể xảy ra trong bối cảnh đa ngữ xã hội phổ biến, tức là chỉ có thể xảy ra
khi có sự ảnh hưởng và thẩm thấu ngôn ngữ ở xã hội đa ngữ với các thành viên
đa ngữ tương đối thuần thục. Nếu không, phải trước hết từ một lượng người
tương đối thuần thục nhất đònh, sau đó lan tỏa ra đa ngữ toàn xã hội. Cho nên
chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, ngôn ngữ học xã hội nhìn nhận tiếp xúc ngôn
ngữ là sự tiếp xúc xã hội mang tính chỉnh thể chứ không phải là sự tiếp xúc
thiểu số, càng không thể là tiếp xúc mang tính cá thể / cá nhân. Điều này cũng
là để nhấn mạnh rằng, kết quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ chỉ được thực hiện
nhờ mở rộng / khuếch tán.
Chuyển từ cách nhìn “sự nghiên cứu lần lượt hai hoặc hơn hai ngôn ngữ
qua cùng một số người” sang cách nhìn “sự nghiên cứu sử dụng ngôn ngữ của
cả cộng đồng nói năng”, ngôn ngữ học xã hội coi tiếp xúc ngôn ngữ là một
hiện tượng xã hội, tức là mang tính xã hội. Vì thế, khi nói đến tiếp xúc ngôn
ngữ không thể không nhắc đến các nhân tố xã hội – ngôn ngữ.
Nói đến nhân tố xã hội tức là nói đến tính cộng đồng xã hội. Chẳng hạn,
khi hai dân tộc nói hai ngôn ngữ khác nhau mà tiếp xúc với nhau thì xu hướng
chung là:
• Ngôn ngữ của dân tộc có sức mạnh về kinh tế, chính trò cao hơn sẽ
ảnh hưởng đến ngôn ngữ của dân tộc có sức mạnh về kinh tế, chính trò thấp
hơn.
• Ngôn ngữ của dân tộc có trình độ văn hóa cao hơn sẽ ảnh hưởng đến
ngôn ngữ của dân tộc có trình độ văn hóa thấp hơn (thường thông qua các kênh
giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, văn học,…).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét