Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị

Pháp luật coi đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại là vì nó cũng có
những dấu hiệu cơ bản của một hoạt động thương mại:
- Các nhà thầu có tư cách thương nhân khi thực hiện hoạt động dự thầu;
- Hoạt động đấu thầu được thực hiện nhằm mục tiêu lợi nhuận hoặc nhằm thực
hiện các chính sách kinh tế_xã hội;
- Đối tuợng của đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là các loại hàng hoá thương mại được
phép lưu thông và các dịch vụ thương mại được phép thực hiện theo quy định của
pháp luật;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đấu thầu được xác lập thông qua
những hình thức pháp lí nhất định do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, đấu thầu có những đặc điểm đặc thù so với các hoạt động thương mại
khác:
- Thứ nhất, đấu thầu là một quá trình có sự tham gia của nhiều chủ thể
Trong quan hệ đấu thầu các chủ thể tham gia đấu thầu có thể bao gồm: chủ đầu tư,
bên mời thầu, nhà thầu, tổ chuyên gia, tổ chức tư vấn. Trong đó:
Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay mặt chủ sở hữu,
người vay vốn trực tiếp quản lý và thực hiện dự án đấu thầu.
Bên mời thầu là bên có khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ nhưng không phải
bất kì chủ thể nào cũng trở thành bên dự thầu. Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc tổ
chức chuyên môn có đủ năng lực và kinh nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức
đấu thầu theo các quy định của pháp luật về đấu thầu.
Nhà thầu là tổ chức, cá nhân có đủ tư cách hợp lệ theo quy định của pháp luật về
đấu thầu. Chỉ những chủ thể có năng lực thực hiện và không ở trong diện bị loại trừ
theo các tiêu chuẩn do bên mời thầu đặt ra mới có quyền trở thành bên tham dự thầu.
Tổ chuyên gia đấu thầu: Tuỳ theo tính chất và mức độ phức tạp của gói thầu,
thành phần tổ chuyên gia đấu thầu bao gồm các chuyên gia về lĩnh vực kỹ thuật, tài
chính, thương mại, hành chính, pháp lý và các lĩnh vực có liên quan. Thành viên tổ
chuyên gia đấu thầu phải có đủ các điều kiện sau:
+ Có chứng chỉ tham gia khoá học về đấu thầu;
+ Có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu;
+ Am hiểu các nội dung cụ thể tương ứng của gói thầu;
5
+ Có tối thiểu 3 năm công tác trong lĩnh vực liên quan đến nội dung kinh tế, kỹ
thuật của gói thầu.
Thành viên tổ chuyên gia đấu thầu không nhất thiết phải tham gia bên mời thầu và
ngược lại.
3
Tổ chức tư vấn bao gồm các “nhà thầu tư vấn là nhà thầu tham gia đấu thầu cung
cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về kiến thức và kinh nghiêm chuyên môn”
4

được quy định theo pháp luật về đấu thầu.
- Thứ hai, đấu thầu là một quy trình gồm nhiều giai đoạn được quy định chặt chẽ
Đấu thầu gồm có nhiều giai đoạn mà trong đó luôn có sự liên hệ mật thiết giữa các
giai đoạn với nhau, giai đoạn trước là tiền đề để thực hiện giai đoạn sau. Khi tham
gia vào từng giai đoạn các chủ thể của quan hệ đấu thầu phải tuân theo các quy tắc
chung được quy định chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
- Thứ ba, mục đích của đấu thầu là lựa chọn nhà thầu tốt nhất tham gia thực hiện
dự án
Trong hoạt động đấu thầu luôn tuân theo những yêu cầu, điều kiện rất chặt chẽ,
thống nhất, đảm bảo sự công bằng giữa các nhà thầu. Các nhà thầu được hưởng các
cơ hội như nhau trong quá trình đấu thầu. Điều này làm cơ sở giúp cho bên mời thầu
đánh giá được các nhà thầu một cách công bằng, khách quan. Thông qua các yêu cầu
mà bên mời thầu đưa ra, các nhà thầu dựa trên năng lực tài chính, kỹ thuật, kinh
nghiệm của mình để chào giá. Nhà thầu nào có giá phù hợp cũng như các tiêu chí
khác về kỹ thuật, kinh nghiệm,v.v…sẽ được chọn làm đối tác.
Ngoài ra, khi tham gia đấu thầu nhà thầu phải có bảo lãnh dự thầu
Đây là việc nhà thầu đặt một khoản tiền mặt, séc hoặc bảo lãnh của ngân hàng để
đảm bảo trách nhiệm của nhà thầu trong việc dự thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu
là nhằm bảo đảm nhà thầu không thay đổi và huỷ bỏ việc tham gia đấu thầu giữa
chừng đồng thời loại bỏ những nhà thầu không nghiêm túc. Số tiền bảo lãnh sẽ được
trả lại cho những nhà thầu không trúng thầu trong một thời hạn nhất định. Việc bảo
lãnh thường do một ngân hàng thực hiện và ngân hàng phải lập giấy cam kết bảo lãnh
kèm theo hồ sơ dự thầu.
3 Điều 9 khoản 2 Luật đấu thầu 2005
4 Điều 4 khoản 13 Luật đấu thầu 2005
6
2. Phân loại đấu thầu
2.1.Theo hình thức lựa chọn nhà thầu
Đấu thầu được chia làm 7 loại
• Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia.
Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các
phương tiện thông tin đại chúng trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Hình thức đấu
thầu này có ưu điểm nổi bật là tính cạnh tranh trong đấu thầu cao, hạn chế tiêu cực
trong đấu thầu, kích thích các nhà thầu phải thường xuyên nâng cao năng lực cạnh
tranh, mang lại hiệu quả cao cho dự án.
• Đấu thầu hạn chế
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối
thiểu là 5) có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham dự phải được người có
thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. là đấu thầu công khai, phải minh
bạch. Trong trường hợp thực tế chỉ có ít hơn 5, Bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án
trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu
hạn chế hoặc áp dụng hình thức lựa chọn khác. Chủ dự án quyết định danh sách nhà
thầu tham dự trên cơ sở đánh giá của Bên mời thầu về kinh nghiệm và năng lực các
nhà thầu, song phải đảm bảo khách quan, công bằng và đúng đối tượng. Hình thức
này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau:
- Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho gói thầu
- Gói thầu có yêu cầu cao về kĩ thuật hoặc kĩ thuật có tính đặc thù; gói thầu có tính
chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số người có khả năng đáp ứng yêu cầu
của gói thầu.
• Chỉ định thầu
Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để
thương thảo hợp đồng. Chỉ định thầu được áp dụng cho các trường hợp sau đây:
- Sự cố bất khả kháng do thiên tai, địch hoạ, sự cố cần khắc phục ngay thì chủ
đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó được chỉ định
ngay nhà thầu để thực hiện; trong trường hợp này chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách
nhiệm quản lý công trình, tài sản đó phải cùng với nhà thầu được chỉ định tiến hành
7
thủ tục chỉ định thầu theo quy định trong thời hạn không quá mười lăm ngày kể từ
ngày chỉ định thầu;
- Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài;
- Gói thầu thuộc dự án bí mật quốc gia; dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia, an ninh an
toàn năng lượng do Thủ tướng chính phủ quyết định khi thấy cần thiết
- Gói thầu mua sắm các loại vật tư, thiết bị để phục hồi, duy tu, mở rộng công suất của
thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất mà trước đó đã được mua từ một nhà thầu
cung cấp và không thể mua từ các nhà thầu cung cấp khác do phải bảo đảm tính
tương thích của thiết bị, công nghệ;
- Gói thầu dịch vụ tư vấn có giá gói thầu dưới năm trăm triệu đồng, gói thầu mua sắm
hàng hoá, xây lắp có giá gói thầu dưới một tỉ đồng thuộc dự án đầu tư phát triển; gói
thầu mua sắm hàng hoá có giá trị gói thầu dưới năm trăm triệu đồng thuộc dự án hoặc
dự toán mua sắm thường xuyên; trường hợp thấy cần thiết thì tổ chức đấu thầu
Khi thực hiện chỉ định thầu, phải lựa chọn một nhà thầu được xác định là có đủ
năng lực và kinh nghiệm đáp ứng các yêu cầu của gói thầu và phải tuân thủ quy trình
thực hiện chỉ định thầu do Chính phủ quy định.
• Chào hàng cạnh tranh
Hình thức này được áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hóa có giá trị dưới
2 tỷ đồng. Nội dung mua sắm là những hàng hoá thông dụng, sẵn có trên thị trường
với đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hoá và tương đương nhau về chất lượng.
Việc gửi chào hàng có thể được thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, bằng fax, bằng
đường bưu điện hoặc bằng các phương tiện khác. Đối với mỗi gói thầu phải có tối
tiểu ba báo giá từ ba nhà thầu khác nhau.
• Mua sắm trực tiếp
Được áp dụng khi hợp đồng đôí với gói thầu có nội dung tương tự được kí trước
đó không quá sáu tháng.
Khi thực hiện mua sắm trực tiếp, được mời nhà thầu trước đó đã được lựa chọn
thông qua đấu thầu để thực hiện gói thầu có nội dung tương tự.
Đơn giá đối với các nội dung thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không
được vượt đơn giá của các nội dung tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã kí hợp
đồng trước đó.
8
Được áp dụng mua sắm trực tiếp để thực hiện gói thầu tương tự thuộc cùng một
dự án hoặc thuộc dự án khác.
• Tự thực hiện
Hình thức này chỉ được áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ năng lực
và kinh nghiệm để thực hiện gói thàu thuộc dự án do mình quản lý sử dụng.
• Lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt
Trường hợp gói thầu có đặc thù riêng biệt mà không thể áp dụng các hình thức lựa
chọn nhà thầu khác thì chủ đầu tư phải lập phương án lựa chọn nhà thầu, bảo đảm
mục tiêu cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định.
2.2. Theo phương thức đấu thầu
Đấu thầu được chia làm 3 loại
• Đấu thầu một túi hồ sơ
Là phương thức mà nhà thầu khi dự thầu nộp các đề xuất về kĩ thuật và về đề xuất
tài chính trong một túi hồ sơ để bên mời thầu xem xét và đánh giá chung. Phương
thức này được áp dụng đối với hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế cho
gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC. Việc mở thầu được tiến hành một
lần.
• Đấu thầu hai túi hồ sơ
Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong
từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Nhà thầu nộp đề xuất kĩ thuật và đề xuất
tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành hai
lần; trong đó, đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở trước để đánh giá, đề xuất về tài chính
của tất cả các nhà thầu có đề xuất kỹ thuật được đánh giá là đáp ứng yêu cầu được
mở sau để đánh giá tổng hợp. Trường hợp gói thầu có yêu cầu kĩ thuật cao thì đề xuất
về tài chính của nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được mở để xem xét,
thương thảo. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu thầu
hạn chế trong đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn.
• Đấu thầu hai giai đoạn
9
Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu
hạn chế cho các gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC có kỹ thuật, công
nghệ mới, phức tạp, đa dạng.
Hai giai đoạn đó như sau:
- Giai đoạn sơ tuyển lựa chọn nhà thầu: theo hồ sơ mời thầu giai đoạn môt, các nhà
thầu nộp đề xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có gia dự thầu; trên cơ
sở trao đổi với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này này sẽ xác định hồ sơ mời thầu
giai đoạn hai;
- Giai đoạn đấu thầu: theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đã tham gia giai
đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề xuất kỹ thuật; đề
xuất về tài chính, trong đó có giá dự thầu; biện pháp bảo đảm dự thầu.
2.3. Theo nội dung đấu thầu
Đấu thầu được chia làm 3 loại
• Đấu thầu tuyển chọn tư vấn
Nhà thầu tư vấn là nhà thầu tham gia đấu thầu cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu
cầu về kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn.
Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình lựa chọn nhà tư vấn có đủ trình độ và kinh
nghiệm để giúp đỡ, tư vấn cho chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị đầu tư và thực
hiện đầu tư.
Dịch vụ tư vấn bao gồm:
- Dịch vụ tư vấn chuẩn bị dự án gồm có lập, đánh giá báo cáo quy hoạch, tổng sơ đồ
phát triển, kiến trúc, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cúu khả thi;
- Dịch vụ tư vấn thực hiện dự án gồm có khảo sát, lập thiết kế, tổng dự toán và dự
toán, lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, giám sát thi công xây dựng và lắp
đặt thiết bị;
- Dịch vụ tư vấn điều hành quản lý dự án, thu xếp tài chính, đào tạo, chuyển giao công
nghệ và các dịch vụ tư vấn khác.
Nhà tư vấn không tham gia đánh giá kết quả công việc do mình thực hiện và không
được tham gia đấu thầu thực hiện các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp do mình làm
tư vấn (trừ các gói thầu thực hiện theo loại hợp đồng chìa khoá trao tay).
• Đấu thầu mua sắm hàng hóa
10
Đấu thầu mua sắm hàng hoá là quá trình lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hoá đáp
ứng được yêu cầu của Bên mời thầu trên cơ sở có sự cạnh tranh giữa các nhà cung
cấp. Hàng hoá ở đây có thể là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,
hàng tiêu dùng và các dich vụ không phải là dịch vụ tư vấn
• Đấu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu thực hiện những công việc thuộc
quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình. Những
quy định pháp luật cụ thể về đấu thầu xây lắp sẽ được trình bày cụ thể ở những phần
sau.
2.4. Theo quốc tịch của nhà thầu
Đấu thầu được chia làm 2 loại
• Đấu thầu trong nước: Là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của
bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước.
• Đấu thầu quốc tế: Là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu
của bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước và nhà thầu nước
ngoài.
Trong đó, “nhà thầu trong nước là nhà thầu được thành lập và hoạt động theo pháp
luật Việt Nam”
5
.
Nhà thầu nước ngoài “là nhà thầu được thành lập và hoạt động theo pháp luật của
nước mà nhà thầu mang quốc tịch”
6
.
II. PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP
1. Khái niệm, đặc điểm, quá trình phát triển của pháp luật về đấu thầu xây
lắp
1.1. Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp là phương thức mà chủ đầu tư sử dụng để tổ chức cạnh tranh
giữa các nhà thầu xây dựng nhằm lựa chọn một nhà thầu xây lắp có khả năng thực
hiện tốt nhất các yêu cầu của dự án. Các yêu cầu đó thường là những yêu cầu về mặt
kinh tế_tài chính, yêu cầu về mặt kĩ thuật, yêu cầu về mặt tiến độ thi công…
5 Điều 4, Khoản 18 Luật đấu thầu 2005
6 Điều 4, Khoản 19 Luật đấu thầu 2005
11
Thực chất của đấu thầu xây lắp là việc ứng dụng phương pháp xét hiệu quả kinh tế
trong việc lựa chọn tổ chức thi công xây dựng. Phương pháp này đòi hỏi sự so sánh
giữa các tổ chức xây dựng trên cùng một phương diện (như kĩ thuật hay tài chính) để
chọn lấy một nhà thầu có đủ khả năng sau đó lại so sánh tiếp. Kết quả cuối cùng sẽ
tìm ra được một tổ chức xây dựng đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của chủ đầu tư.
Đấu thầu xây lắp có một số đặc điểm khác so với đấu thầu trong những lĩnh vực
khác. Cụ thể:
- Sản phẩm của sản xuất xây lắp có đặc điểm là mang tính đơn chiếc, công trình đặt tại
một vị trí cố định, phục vụ cho một mục đích cụ thể, một chủ trương quản lí sử dụng,
không phải là hàng hoá thông thường mua bán trên thị trường, khối lượng vật chất,
tiền vốn tiêu hao, số lao động tham gia vào quá trình sản xuất lớn gấp nhiều lần các
loại sản phẩm thuộc lĩnh vực khác, một công trình có nhiều ngành nghề và tổ chức
cùng tham gia.
- Thời gian hoàn thành công trình lại dài, khi đã thực hiện các bước như chuẩn bị đầu
tư, chuẩn bị xây dựng…thì không thể dễ dàng thay đổi, đình hoãn. Điều đó chứng tỏ
xây dựng cơ bản là một quá trình sản xuất phức tạp, đa dạng có tác dụng cũng như
hậu quả lâu dài về sau. Quy mô của công trình càng lớn thì mối quan hệ với các
ngành, lĩnh vực càng phức tạp và có tác động lớn đến việc phân bố lại lực lượng sản
xuất và dân cư, tác động đến môi sinh, môi trường và cơ sỏ hạ tầng kỹ thuật khác. Vì
thế việc áp dụng đấu thầu trong xây dựng cơ bản không những phải đạt được tiêu
chuẩn một công trình với giá thành rẻ, chất lượng cao mà còn phải đặt trong tổng thể
phát triển của nền kinh tế xã hội.
1.2. Quá trình phát triển của pháp luật về đấu thầu xây lắp
Pháp luật về đấu thầu xây lắp là tổng hợp các Quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ hình thành trong hoạt động đấu thầu xây lắp của tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước tham gia hoạt động đấu thầu xây lắp.
Vào cuối những năm 30 và đầu những năm 40 cùng với sự phát triển của thị
trường kinh tế tư bản trên nhiều lĩnh vực, đòi hỏi chế độ bán đấu giá cũng phải được
áp dụng rộng rãi. Nhưng bán đấu giá chưa có đủ cơ sở để thực hiện trong lĩnh vực
đặc thù riêng như: chuyển giao công nghệ, xây dựng cơ bản…do vậy đấu thầu ra đời.
Việc ra đời của pháp luật về đấu thầu nói chung cũng như đấu thầu xây lắp nói riêng
12
là một tất yếu khách quan. Có thể khái quát quá trình phát triển của pháp luật về đấu
thầu xây lắp qua các giai đoạn sau:
• Giai đoạn trước khi có Quy chế đấu thầu ban hành kèm Nghị định 43/CP của
Chính phủ ban hành ngày 16/07/1996
Ở Việt nam từ 1988 trở về trước, quá trình đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiện
theo Điều lệ Xây dựng cơ bản ban hành theo Nghị định số 232/CP ngày 06/06/1981
các doanh nghiệp xây lắp theo phương thức tự làm và giao nhận thầu xây dựng. Tuy
nhiên hai phương thức này có nhược điểm mang tính chất tự cung tự cấp, có nhiều
thiếu sót trong thủ tục xây dựng cơ bản. Mặt trái của phương thức giao nhận thầu là
hiện tượng mua bán thầu, cho nên có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm.
Kết quả là có nhiều công trình thi công có chất lượng kém, khi đưa vào sử dụng thì
không hiệu quả.
Do đó để khắc phục những tồn tại của phương thức cũ, đáp ứng đòi hỏi của cơ chế
mới. Vào tháng 11/1987 trong Quyết định 217-HĐBT có đưa ra một số điều quy định
về đấu thầu. Tuy nhiên vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể vì vậy việc áp dụng và
thực hiện vẫn chưa mang lại hiệu quả.
Ngày 09/05/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 80-HĐBT về các
chính sách đổi mới cơ chế quản lí xây dựng cơ bản. Nhằm đáp ứng yêu cầu quy định
của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 10/01/1989 Thông tư hướng dẫn tạm thời số 03/BXD-
VKT đã ra đời.
Tuy nhiên Thông tư hướng dẫn số 03 còn có nhiều khiếm khuyết khi áp dụng vào
thực tế. Vì vậy, đến ngày 12/02/1990 Bộ xây dựng đã ban hành Quy chế đấu thầu
trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT thay thế cho Thông tư số
03/BXD-VKT. Có thể nói rằng quy chế đấu thầu trong xây dựng ban hành kèm theo
Quyết định 24/BXD-VKT là quy chế đầu tiên về hoạt động đấu thầu xây dựng của
Việt Nam.Trong văn bản này các vấn đề cơ bản về đấu thầu xây dựng (phạm vi, đối
tượng điều chỉnh, quyền và nghĩa vụ của các bên, các hình thức và trình độ tổ chức
đấu thầu …) đã được quy định. Tuy chưa đầy đủ song chúng đã khái quát được một
số nét cần thiết nhất để thực hiện đấu thầu xây dựng. Trong quy chế này mục tiêu của
đấu thầu chưa được đặt ra nhưng có thể thấy rằng việc ban hành quy chế này đã tạo
nên một nền tảng pháp lý để qua đó tạo nên một sân chơi bình đẳng, mang tính cạnh
tranh cho các thành phần kinh tế trong xã hội
13
• Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP và
Nghị định số 93/1997/NĐ-CP ngày 23/08/1997
Nói chung Quy chế đấu thầu trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-
VKT còn mang nặng tính quản lý về mặt hành chính Nhà nước. Bốn năm sau ngày
ban hành Quy chế này, thực hiện cải tiến công tác đơn giá, dự toán nhằm chống lãng
phí, thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng theo Quyết định số 92-TTg ngày
7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ xây dựng đã ban hành Quy chế đấu thầu
trong xây lắp kèm theo Quyết định số 60-BXD/VKT ngày 30/3/1994. Quy chế này
thay thế Quy chế đấu thầu trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT
ngày 12/2/1990. Đây là một bước tiến rõ rệt của việc điều chỉnh công tác đấu thầu
trong xây dựng ở Việt Nam giai đoạn này. Quy chế gồm 32 điều, quy định một cách
rõ ràng, chi tiết đấu thầu trong xây dựng. Các quy định của quy chế mở rộng hơn
hình thức đấu thầu, phạm vi các công trình cần đấu thầu và quy định cụ thể quyền và
nghĩa vụ của các bên trong đấu thầu. Tuy vậy, trình tự đấu thầu chưa được quy định
cụ thể. Việc quản lý hồ sơ được quy định ở mức độ chưa cao, chưa đảm bảo được
nguyên tắc bảo mật của đấu thầu. Quy chế chỉ quy định hai hình thức đấu thầu rộng
rãi và đấu thầu hạn chế mà chưa có chỉ định thầu.
Có thể nói hai quy chế đấu thầu ra đời trong điều kiện nền kinh tế vừa thoát khỏi
cơ chế quản lý cũ nên khó có thể thoát khỏi các dấu ấn của quản lý hành chính. Các
quy định chưa bao quát được hết tình hình thực tế, chưa theo kịp sự phát tiển của nền
kinh tế. Do đó, chỉ hai năm sau Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/1996/NĐ-CP
ngày 17/07/96 về thủ tục đấu thầu, trong đó dành hẳn một chương cho đấu thầu trong
xây dựng.
Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ra đời đã đánh dấu một bước tiến lớn với nhiều
điểm tiến bộ hơn hẳn so với các văn bản ra đời trước đây quy định về đấu thầu trong
xây dựng. Nghị định này đã quy định một cách tương đối đầy đủ trình tự, thủ tục, các
bước tiến hành cho một cuộc đấu thầu, hình thức chỉ định thầu được pháp luật quy
định đã có sự tương quan, liên hệ với các nguyên tắc của đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên,
Nghị định số 43/CP vẫn chưa quy định đầy đủ quá trình mở thầu trong khi đó lại có
nhiều điều khoản về các đặc quyền của doanh nghiệp nhà nước khi tham gia đấu
thầu. Một năm sau ngày Nghị định ra đời, kết quả khảo sát về ảnh hưởng của Nghị
định này đã chỉ ra rằng có nhiều khó khăn trong việc lựa chọn nhà thầu thắng thầu để
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét