Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Vận dụng quan điểm của thuyết lợi thế so sánh, hãy lựa chọn mặt hàng tập trung chuyên môn hóa sản xuất để xuất khẩu của Việt Nam

Nội dung thuyết trình
Chính sách tương mại Quốc tế
Nhóm 1 lớp A10: Lê Quốc Anh
Bùi Thị Hòa
Hoàng Thị Minh Ngọc
Trần Thị Thảo
Đỗ Thị Tuyết
Đề tài:
Vận dụng quan điểm của thuyết lợi thế so sánh, hãy lựa chọn mặt hàng tập trung
chuyên môn hóa sản xuất để xuất khẩu của Việt Nam.
I. Cơ sở lý thuyết:
1. Định nghĩa
Lợi thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi
quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng
hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu
quả hơn các nước khác); ngược lại, mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu
những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối cao (hay tương
đối không hiệu quả bằng các nước khác).
Nguyên tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ
thương mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả
bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi hàng hóa
2.Giới thiệu “Lý thuyết lợi thế so sánh” của David Ricardo
2.1 Lý thuyết lợi thế so sánh
Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã nghiên cứu và
chỉ ra rằng chuyên môn hóa quốc tế sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia và gọi kết
quả này là quy luật lợi thế so sánh. Ông đã phân tích như sau:
Bảng 1 - Chi phí về lao động để sản xuất
Sản phẩm Tại Anh (giờ công) Tại Bồ Đào Nha (giờ công)
1 đơn vị lúa mỳ 15 10
1 đơn vị rượu vang 30 15
Trong ví dụ này Bồ Đào Nha có lợi thế tuyệt đối so với Anh trong sản
xuất cả lúa mỳ lẫn rượu vang: năng suất lao động của Bồ Đào Nha gấp hai lần
Anh trong sản xuất rượu vang và gấp 1,5 lần trong sản xuất lúa mỳ. Theo suy
nghĩ thông thường, trong trường hợp này Bồ Đào Nha sẽ không nên nhập khẩu
mặt hàng nào từ Anh cả. Thế nhưng phân tích của Ricardo đã dẫn đến kết luận
hoàn toàn khác:
• 1 đơn vị rượu vang tại Anh sản xuất phải tốn chi phí tương đương với chi
phí để sản xuất 2 đơn vị lúa mỳ (hay nói một cách khác, chi phí cơ hội để
sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 2 đơn vị lúa mỳ); trong khi đó, tại Bồ Đào
Nha, để sản xuất 1 đơn vị rượu vang chỉ mất chi phí tương đương với chi
phí để sản xuất 1,5 đơn vị lúa mỳ (hay chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị
rượu vang là 1,5 đơn vị lúa mỳ). Vì thế ở Bồ Đào Nha sản suất rượu vang
rẻ hơn tương đối so với ở Anh.
• Tương tự như vậy, ở Anh, sản xuất lúa mỳ rẻ hơn tương đối so với Bồ
Đào Nha (vì chi phí cơ hội chỉ có 0,5 đơn vị rượu vang trong khi ở Bồ
Đào Nha phải mất 2/3 đơn vị rượu vang). Hay nói một cách khác, Bồ Đào
Nha có lợi thế so sánh về sản xuất rượu vang còn Anh có lợi thế so sánh
về sản xuất lúa mỳ. Để thấy được cả hai nước sẽ cùng có lợi nếu chỉ tập
trung vào sản xuất hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh: Bồ Đào Nha chỉ
sản xuất rượu vang còn Anh chỉ sản xuất lúa mỳ rồi trao đổi thương mại
với nhau, Ricardo đã làm như sau:
• Ông giả định nguồn lực lao động của Anh là 270 giờ công lao động, còn
của Bồ Đào Nha là 180 giờ công lao động.
• Nếu không có thương mại, cả hai nước sẽ sản xuất cả hai hàng hoá và
theo chi phí tại Bảng 1 thì kết quả là số lượng sản phẩm được sản xuất ra
như sau:
Bảng 2 - Trước khi có thương mại
Quốc gia Số đơn vị lúa mỳ Số đơn vị rượu vang
Anh 8 5
Bồ Đào Nha 9 6
Tổng cộng 17 11
• Nếu Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rượu vang còn Anh chỉ sản xuất lúa mỳ rồi
trao đổi thương mại với nhau thì số lượng sản phẩm được sản xuất ra sẽ
là:
Bảng 3 - Sau khi có thương mại
Đất nước Số đơn vị lúa mỳ Số đơn vị rượu vang
Anh 18 0
Bồ Đào Nha 0 12
Tổng cộng 18 12
Rõ ràng sau khi có thương mại và mỗi nước chỉ tập trung vào sản xuất
hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh, tổng số lượng sản phẩm của lúa mỳ và
rượu vang của cả hai nước đều tăng hơn so với trước khi có thương mại (là lúc
hai nước cùng phải phân bổ nguồn lực khan hiếm của mình để sản xuất cả hai
loại sản phẩm).
Tuy nhiên phân tích của Ricardo phải kèm theo những giả định sau:
 Không có chi phí vận chuyển hàng hoá.
 Chi phí sản xuất cố định không thay đổi theo quy mô.
 Chỉ có hai nước sản xuất hai loại sản phẩm.
 Những hàng hoá trao đổi giống hệt nhau.
 Các nhân tố sản xuất chuyển dịch một cách hoàn hảo.
 Không có thuế quan và rào cản thương mại.
 Thông tin hoàn hảo dẫn đến cả người bán và người mua đều biết
nơi có hàng hoá rẻ nhất trên thị trường quốc tế.
2.2 Mở rộng phân tích lợi thế so sánh cho nhiều hàng hóa và nhiều quốc gia
o Trường hợp có nhiều hàng hoá với chi phí không đổi và có hai quốc
gia thì lợi thế so sánh của từng hàng hoá sẽ được sắp xếp theo thứ
tự ưu tiên từ hàng hoá có lợi thế so sánh cao nhất đến hàng hoá có
lợi thế so sánh thấp nhất và mỗi nước sẽ tập trung vào sản xuất
những mặt hàng có lợi thế so sánh từ cao nhất đến cao ở mức cân
bằng. Ranh giới mặt hàng nào là có lợi thế so sánh cao ở mức cân
bằng sẽ do cung cầu trên thị trường quốc tế quyết định.
o Trường hợp có nhiều nước thì có thể gộp chung tất cả các nước
khác thành một nước gọi là phần còn lại của thế giới và những phân
tích trên vẫn giữ nguyên tính đúng đắn của nó. Lợi thế so sánh
không những áp dụng trong trường hợp thương mại quốc tế mà còn
có thể áp dụng cho các vùng trong một quốc gia một cách hoàn toàn
tương tự.
Nguyên tắc lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu
thương mại quốc tế.Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 Paul
Samuelson đã viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là
một trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia
không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức
sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình."
3.Công thức RCA
“RCA” – Lợi thế so sánh biểu hiện ( The co-efficient of Revealed
Comparative Advantage ) dùng để đo lường lợi thế so sánh của sản phẩm này
với sản phẩm khác và nước này với nước khác.Đến nay RCA được các nước sử
dụng như là một chỉ số để đo lường lợi thế so sánh . Hệ số RCA chỉ ra khả năng
cạnh tranh xuất khẩu của một quốc gia về một sản phẩm xác định trong mối
tương quan với mức xuất khẩu thế giới của sản phẩm đó.

Công thức :
RCA = (Exa/ Ea) : (E xw/ E w)
Trong đó:
• Exa : kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của nước A
• Ea : tổng kim ngạch xuất khẩu của nước A
• Exw : kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của thế giới
• Ew: tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới
Hệ số:
• RCA>2,5: Sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao
• 1<RCA< 2,5: Sản phẩm có lợi thế so sánh
• RCA<1: Sản phẩm bất lợi thế so sánh
II. Vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh vào mặt hàng GẠO của Việt Nam
1. Chứng minh lợi thế so sánh mặt hàng xuất khẩu GẠO:
Ta có bảng số liệu sau:
Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2007
Năm Số lượng (triệu tấn) Kim ngạch (triệu USD)
2000 3.476 667.000
2001 3.550 588.000
2002 3.241 726.000
2003 3.892 721.000
2004 4.055 941.000
2005 5.202 1.399.000
2006 4.749 1.306.000
2007 4.500 1.454.000
(Nguồn tài liệu: Tổng công ty lương thực Việt Nam và Tổng cục thống kê)
Từ đó ta có đồ thị sau:
Theo bảng số liệu cũng như đồ thị trên về tình xuất khẩu gạo ở Việt Nam
từ năm 2000 – 2007 , thì lượng gạo xuất khẩu của Viêt Nam không ngừng tăng
lên qua các năm. Từ mức 667 triệu tấn vào năm 2000 và đến đỉnh điểm ở mức
4500 triệu tấn chỉ qua có 7 năm vào năm 2007.Từ đó ta thấy rõ thế mạnh của
mặt hàng gạo của Viêt Nam trên thị trường Quốc tế.
Tuy nhiên, để chứng minh lợi thế so sánh mặt hàng gạo của Viểt Nam, thì thông
qua bẳng số liệu trên là chưa đủ. Ở dây, chúng ta sế dùng công thứ lợi thế so
sánh biểu hiện RCA để chứng minh .
Xét bảng số liệu:
Áp dụng công thức RCA ta có:
RCA = (Exa/ Ea) : (E xw/ E w)
=(950/26000) : (8970/12440000)
=49,93
Vậy, với chỉ số RCA=49,93, dã cho ta thấy một sưn thật hiển nhiên rằng,
Việt Nam có lợi thế so sánh vô cùng lớn về mặt hàng gạo xuất khẩu.
2. Lợi thế về sản xuất gạo ở Việt Nam.
Ở đây, chúng ta sẽ bàn về 3 khía cạnh nguồn lực của Viẹt Nam trong viêc
sản xuất gạoxuất khẩu là: Điều kiện tự nhiên, nguồn lao động, truyền thống
trồng lúa nước.
 Về điều kiện tự nhiên:
Diện tích đất đai cả nước khoảng 330.363 km2 trong đó có tới 50% đất
dùng vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Cộng thêm khí hậu nhiệt đới mưa năng
điều hoà cho phép chúng ta phát triển sản xuất gạo và xuất khẩu có hiệu quả
kinh tế cao.
 Về nguồn lao động:
Đây cũng là một lợi thế quan trọng để phát triển sản xuất. Tính đến năm
2004, Việt Nam có khoảng 82,4 triệu người, trong đó gần 42 triệu người đang
trong độ tuổi lao động và hơn 70% dân số làm nghề nông. Hàng năm tốc độ tăng
dân số bình quân 1,5%, dự báo năm 2010 dân số Việt Nam lên đến 100 triệu
người. Với nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, người lao động cần cù,
trình độ ngày càng được nâng lên, tạo lợi thế để phát triển sản xuất và xuất khẩu
mặt hàng gạo.
 Phong tục tập quán:
Ngoài ra nước ta là nước có truyền thống trồng lúa từ hàng trăm năm nay.
Do vậy người dân đã được tích luỹ kinh nghiệm từ đời này sang đời khác, thành
thạo trong hoạt động sản xuất.
3. Chuyên môn hoá sản xuất xuất khẩu gạo:
1) Trước hết phải kể đến những chính sách hỗ trợ phát triển trồng lúa gạo,
trong đó chính sách Hộp xanh ( Green box ) nhằm hỗ trợ ngành nông
nghiệp nói chung:
Một số dạng hỗ trợ chính của chính sách "hộp xanh":
 Trợ cấp nghiên cứu, khuyến nông, đào tạo, xây dựng chính sách hỗ trợ
nông nghiệp, phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh.
 Trợ cấp chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp thông qua chương trình chuyển
mục đích sử dụng đất.
 Trợ cấp chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nội ngành như chuyển đổi giống
cây trồng.
 Trợ cấp đầu tư theo các hình thức vay ưu đãi, hỗ trợ sau đầu tư, hỗ trợ lãi
suất.
 Trợ cấp vật tư đầu vào cho người nghèo, thu nhập thấp hoặc nông dân ở
vùng khó khăn.
 Trợ giúp các vùng khó khăn, kém phát triển, hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai
2) Các chính sách tập trung sản xuất trồng lúa gạo xuất khẩu:
a) Áp dụng những công nghệ tiên tiến mới, đặc biệt là các giống lúa lai
( HT1, Chiêm Hương, BT13, N46 và T10)
− Những năm qua, cây lúa lai đã trở thành một trong những giống lúa
cho năng suất và hiệu quả khá cao được Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn xây dựng thành chương trình phát triển 1 triệu ha lúa lai
vào năm 2010. Trong pháp lệnh giống cây trồng do Chủ tịch nước ký
ngày 5/4/2005 có khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức cá
nhân sản xuất nông nghiệp sử dụng giống cây trồng mới có năng suất
cao và chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu thị trường. Bên cạnh đó, pháp
lệnh cũng qui định rõ trách nhiệm cụ thể của các Bộ, Ban, Ngành liên
quan cùng chính quyền địa phương. Ngoài ra phải kết hợp với việc
nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật chăm sóc cây trồng theo hướng sản
xuất nông sản chất lượng cao sạch và an toàn với người tiêu dùng.
Đồng thời, chú trọng đầu tư vào chế biến và bảo quản nông sản .
− Hiện nay nhà nước, các cấp chính quyền địa phương vẫn hỗ trợ hoạt
động của các Hợp tác xã nông nghiệp, các Trung tâm giống cây trồng
trong việc giúp đỡ nông dân nhập giống lúa, các kĩ thuật canh tác cho
năng suất cao.
− Một ví dụ điển hình gần đây đó là vụ đầu năm 2008, Trung Tâm
Giống cây trồng tỉnh Phú Thọ đã cho nhâph khẩu guiống lúa Nhị Ưu
7, cùng với HTX Nông Nghiệp xã Hoàng Xá giúp người dân hiểu biết
và áp dụng kĩ thuật canh tác, giống lúa này đã mang lại năng suất cao
( 2,6 tạ/ sào) khiến người dân vô cùng phấn khởi ( Theo báo Phú Thọ )
b) Các hình thức liên kết “ 4 nhà” ( nhà nông, nhà nước, nhà khoa học) đang
ngày càng được nhân rộng mang lai hiệu quả cao
c) Đầu tư vào hệ thống sấy, xay xát và bảo quản gạo, xây dựng cảng ở sông
Hồng và Đống bằng sông Cửu Long phục vụ xuất khẩu
d) Tập trung và bảo đảm mức thu nhập hợp lý cho người trồng lúa
e) Động viên khuyến khích và hỗ trợ phong trào sáng tạo của nông dân cải
tiến công cụ lao động nông nghiệp trong thu hoạch lúa nói riêng và các
lĩnh vực sản xuất nói chung bằng nhiều hình thức; đẩy lên thành phong
trào cải tiến công cụ lao động trong thời kỳ CNH, HÐH nông nghiệp và
nông thôn:
Ông Nguyễn Kim Chính ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định đã cải tiến
thành công chiếc máy gặt lúa, tạo ra nhiều chức năng tiện lợi. Máy có thể cắt
được lúa đổ thu lá lúa khô, tránh gây kẹt lưỡi dao, tránh bùn đất vung vào lưỡi
cắt. Bởi sáng kiến này, nông dân Nguyễn Kim Chính đã được trao giải khuyến
khích Giải thưởng Vifotec.

− Hỗ trợ các nhà chế tạo máy tuốt lúa, máy gặt rải hàng hiện nay có điều
kiện liên kết, phân công chuyên môn hóa, áp dụng tiến bộ công nghệ chế
tạo. Huy động các nhà khoa học thông qua những đề tài nghiên cứu cấp
Nhà nước, cấp Bộ và kết hợp các nhà sản xuất bằng những hợp đồng kinh
tế nhằm nhanh chóng nâng cao chất lượng về độ bền, độ tin cậy máy với
giá thành phù hợp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp Bộ
Công thương xây dựng giải pháp và chính sách trình Chính phủ hỗ trợ
giải quyết chế tạo động lực cho máy gặt đập liên hợp
Máy gặt đập liên hợp: MGĐ 120
Chiều rộng lưỡi cắt: 1200mm
Chiều cao cắt: 100-500mm
Năng suất (tuỳ thuộc vào loại ruộng, độ cứng của cây lúa): 1-1.5 hecta/ngày
Tổng hao hụt (hạt rơi vãi, đập xót theo rơm): 1-3%
Tỷ lệ hạt vỡ: <= 0.5%
Công suất động cơ BS: 12 - 16 HP
Tiêu thụ nhiên liệu: 15 Lít/ hecta
Kích thước phủ bì (dài x rộng x cao): (3600 x 1610 x 1600) mm
* Tốc độ máy : 1-6km/giờ (3 số tới, 1 số lùi), tuỳ thuộc vào người sử dụng.
* Nhân lực cần thiết : 1 người điều khiển, 1 người vô bao và 1 người chuyển bao
* Bánh xe : bánh hơi cao su cho những cánh đồng khô và bánh lồng được thiết kế
dùng cho các cánh đồng nước vào vụ hè thu.
f) Sau đây là mô hình chuyên môn hoá trồng lúa và sản xuất các sản phẩm
từ lúa gạo rất thành công ở Hoài Đức – Hà Tây cũ:
− Chủ yếu tập trung vào công nghệ chế biến xay xát gạo và các sản phẩm từ
gạo . Hiện nay, Hoài Đức có 75 cơ sở lớn nhỏ đang sản xuất, chế biến và
kinh doanh các sản phẩm từ gạo trong đó Công ty Cổ phần Việt Đức đã
trở thành một công ty có tên tuôi trong lĩnh vực kinh doanh chế biến nông
sản thực phẩm sạch an toàn.
− Hiện công ty đã đầu tư dây chuyền sản xuất gạo với công nghệ hiện đại.
Hàng năm công ty cung cấp cho thị trường hàng chục tấn gạo với chất
lượng cao, sạch và an toàn. Công ty xuất khẩu sang thị trường Châu Âu từ
10-20 tấn/tháng. Ông Phạm Minh Đức – Giám đốc Công ty Cổ phần Việt
Đức cho biết: “Công ty Việt Đức đã đầu tư một cách có hệ thống và bài
bản.Việt Đức đã đi xuống từng vùng nguyên liệu để đầu tư giống kỹ thuật
cho bà con nông dân và ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Bên
cạnh đó, công ty còn đưa cán bộ kỹ thuật xuống hướng dẫn bà con nông
dân cách gieo trồng, chăm sóc thu hoạch và bảo quản nông sản sau thu
hoạch một cách khoa học nhằm đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào”.
− Công ty Việt Đức đã xây dựng mô hình liên kết giữa bốn nhà: nhà nông,
nhà doanh nghiệp, nhà nước và nhà khoa học để tạo ra sản phẩm có chất
lượng được thị trường trong nước và quốc tế chấp nhận, từng bước giúp
nhà nông thoát nghèo và làm giàu trên những thửa ruộng của mình. Công
ty cổ phần Việt Đức hợp tác với Viện Di truyền Nông nghiệp - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu và áp dụng các giống lúa có
chất lượng và năng suất cao; kết hợp với Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuậtchăm sóc cây trồng theo
hướng sản xuất nông sản chất lượng cao sạch và an toàn với người tiêu
dùng. Đồng thời, Công ty kết hợp với Viện Công nghệ sau Thu hoạch -
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong chế biến bảo quản nông
sản.
III. Kết luận:
1. Thành tựu:
Cho đến nay, hiện trạng sản xuất lúa gạo của nước ta đã đổi thay rất
nhiều. Mặc dù lúa vẫn là cây trồng chủ yếu của nông nghiệp Việt Nam, có vị trí
hết sức quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đóng góp khá lớn vào
kim ngạch xuất khẩu nông sản (chiếm khoảng 25%) nhưng diện tích trồng lúa
lại đang thu hẹp dần. Tính riêng về diện tích trồng lúa so với tổng diện tích gieo
trồng chung cả nước năm 1991 chiếm tới 70%, đến năm 2001 còn 60%. Tuy
nhiên, nhờ các tiến bộ khoa học được áp dụng, khả năng thâm canh của nông
dân được nâng cao, cho nên năng suất, sản lượng lúa vẫn tăng.
Năm 2001, diện tích lúa giảm 182 nghìn ha. Nhiều vùng đã chuyển đất
một vụ lúa mùa, năng suất thấp, bấp bênh sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn
quả, cây công nghiệp. Từ năm 2002 đến nay, diện tích trồng lúa liên tục giảm,
nhường diện tích đất gieo trồng các loại cây khác hiệu quả hơn. Ðiển hình là
năm 2005, diện tích lúa giảm 340 nghìn ha.
Tuy nhiên, trong năm năm gần đây, mỗi năm sản lượng lúa vẫn tăng trung
bình 700 nghìn tấn. Công cuộc chuyển dịch cơ cấu, trong đó việc quan trọng là
giảm diện tích lúa chuyển sang các cây trồng khác cho lợi nhuận cao đang làm
bức tranh nông nghiệp nước ta đổi thay từng ngày. Có thể nhận định công cuộc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đi từ chiều rộng đến chiều sâu. Giá trị trên một ha
đất canh tác tăng từ 17 triệu đồng/ha lên 24 triệu đồng/ha, bình quân cả nước sau
năm năm (2000-2005). Riêng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long đạt gần 40 triệu đồng/ha. Các sản phẩm nông nghiệp phong phú, đa dạng,
thể hiện sự phát triển toàn diện của ngành nông nghiệp.
Tổng kim ngạch xuất khẩu nông - lâm sản năm 2005 đạt 5,8 tỷ USD, tăng
29% so với năm trước, gấp hai lần kim ngạch năm 2001. Trong số các mặt hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta, gạo vẫn chiếm vị trí quan trọng hàng
đầu. Khi thị trường xuất khẩu nông-lâm sản mở rộng sang hơn 100 quốc gia và
vùng lãnh thổ thì hạt gạo Việt Nam cũng đã có mặt hơn 40 nước. Hạt gạo Việt
Nam cũng đã góp phần đưa vị thế nước ta ngày càng cao trên thế giới.
2. Hạn chế & thách thức.
a) Quy định lượng gạo xuất khẩu năm 2008 :
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã ban hành quy chế “Đăng ký hợp
đồng xuất khẩu gạo năm 2008” nhằm giới hạn lượng gạo xuất khẩu. Trước đó,
VFA cũng đã yêu cầu các đơn vị thành viên không giao dịch ký hợp đồng mới
có thời hạn giao hàng trong tháng 3-2008 bởi số lượng gạo xuất khẩu theo cân
đối của Bộ Công Thương trong quý I/2008 (từ 700.000 - 800.000 tấn) đã đủ.
Hiệp hội Lương thực Việt Nam quy định, số lượng gạo trắng các loại mà
mỗi doanh nghiệp được đăng ký xuất khẩu cho 6 tháng đầu năm 2008 không quá
50% số lượng xuất khẩu trực tiếp bình quân hai năm 2006-2007. Khi đăng ký
hợp đồng, doanh nghiệp phải kèm báo cáo tồn kho tối thiểu 50% số lượng đăng
ký (không kể hợp đồng tập trung và gạo nếp, gạo thơm). Cùng với Quy chế
Đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo năm 2008, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã
ban hành Quy chế Thực hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung. Theo đó,
việc lựa chọn doanh nghiệp dự thầu, giao dịch ký kết hợp đồng tập trung được
thực hiện theo nguyên tắc dân chủ công khai. Doanh nghiệp trúng thầu hoặc
được chỉ định để ký hợp đồng tập trung được xuất khẩu trực tiếp tối thiểu 30%
số lượng hợp đồng. Số còn lại Hiệp hội phân giao cho các doanh nghiệp thành
viên khác ủy thác xuất khẩu.
Giá cước vận tải tăng nhanh cũng là một khó khăn rất lớn đối với hoạt
động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cước luồng châu Á tăng từ 18-19 USD/tấn
lên 26-30 USD/tấn; luồng vận tải đi châu Phi còn tăng cao hơn, từ 80-90
USD/tấn lên tới 120-130 USD/tấn, chiếm trên 30% trị giá FOB của loại gạo cao
cấp khi xuất khẩu.
b) Thách thức về chất lượng và giá thành:
Do chất lượng gạo chưa cao nên giá bán bình quân các loại gạo xuất khẩu
luôn thấp hơn giá gạo bình quân của Thái Lan. Khoảng cách chênh lệch giá gạo
xuất khẩu Việt Nam với Thái Lan loại 5% tấm năm 2000 là 40-50USD/tấn, nay
tuy có rút ngắn nhưng gạo 5% tấm của ta vẫn thấp hơn từ 20- 35USD/tấn so với
Thái Lan. Còn so sánh bình quân tất cả các loại gạo xuất khẩu thì hàng của ta
luôn thấp hơn hàng Thái Lan khoảng 12-24 USD/tấn.
c) Thách thức về thị trường và thương hiệu:
Gạo Việt Nam được xuất sang nhiều thị trường với mức độ khác nhau,
bao gồm. Châu Á 46%; Trung Đông 25%; Châu Phi 12%; Châu Mỹ 1%; các
nước khác 13,5%. Ngoài ra Việt Nam còn xuất sang Trung Quốc, Ấn Độ,
Pakistan Phần lớn các khu vực thị trương này có trình độ tiêu dùng thấp, khả
năng thanh toán hạn chế. So với Thái Lan việc gạo Việt Nam dành được những
thị trường tiêu thụ có chất lượng tiêu dùng cao còn rất hạn chế. Nhìn chung việc
xuất khẩu gạo của ta vào thị trường có chất lượng tiêu dùng cao đang bị cạnh
tranh quyết liệt. Một vấn đề nữa là mặc dù Việt Nam nước xuất khẩu gạo lớn,
nhưng chưa có thương hiệu, nhóm thương hiệu gạo nổi tiếng hoặc đặc trưng cho
gạo Việt Nam, trong khi các thương hiệu gạo “Hương nhài - Jasmine”, gạo
Basmati được gắn liền với các quốc gia sản xuất là Thái Lan, Ấn Độ và Pakistan
trên thị trường thế giới. Do vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng
phát triển thị trường, rất cần thiết phải xây dựng thương hiệu cho gạo Việt Nam.
d) Khó khăn trong duy trì nguồn cung:
Sản xuất theo quy mô nhỏ, tự phát, một cánh đồng trồng nhiều loại giống.
Các chi phí dùng cho sấy, tồn trữ, xay xát và chế biến lúa gạo còn thấp, khoảng
7%/tổng giá trị sản xuất; các phụ phẩm trấu, cám, tấm chưa được quan tâm chế
biến thành sản phẩm cao cấp như trích ly và tinh luyện dầu cám, sử dụng trấu
cho nhà máy điện trấu, bêtông nhẹ
Thêm vào đó những hoạt động trong chuỗi cung ứng như nhà cung ứng
đầu vào, người sản xuất, chế biến, phân phối, tiếp thị và tiêu dùng chưa thật sự
gắn kết với nhau để xây dựng thương hiệu, tạo ra sản phẩm chất lượng ổn định,
uy tín trên thị trường. Đây chính là thách thức lớn trong sản xuất và xuất khẩu
gạo ra nước ngoài cũng như gạo nước ngoài vào Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập WTO.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét