chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay là
nguồn chính để bù đắp mọi chi phí trong ngân hàng như chi phí quản lý,
chi phí trả lương, thuế, chi phí bảo quản
Với sự phát triển của kinh tế thị trường như hiện nay thì các ngân
hàng thương mại không ngừng tăng quy mô cho vay cả về số lượng và
chất lượng. Hầu hết các ngân hàng thương mại cho vay ngắn hạn thường
chiếm tỷ lớn trong tổng danh mục cho vay, tuy nhiên với xu hướng hiện
nay các ngân hàng đang tận dụng một cách tối đa, tăng dần tỷ trọng cho
vay trung và dài hạn trong tổng nguồn.bởi lẽ các khoản cho vay trung và
dài hạn sẽ có lãi suất cao hơn nhiều so với cho vay ngắn hạn, tất nhiên sẽ
có sự đánh đổi giữa rủi ro và lọi nhuận, nên ngân hàng cần thẩm định và
kiểm tra thật kỹ trước khi ra quyết định cho vay.
3- Một số hoạt động khác:
Bảo quản tài sản hộ: Là nghiệp vụ mà Ngân hàng giữ hộ những tài
sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của
khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Ngân
hàng cung cấp các tài khoản giao dịch cho khách hàng và thực hiện thanh
toán qua tài khoản giao dịch của khách hàng, thanh toán bằng séc, uỷ
nhiệm chi, nhờ thu, L/C, cao hơn là thanh toán bằng điện
Quản lý ngân qũy: Ngân quỹ trong ngân hàng là một yếu tố vô cùng
quan trọng đối với Ngân hàng, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng. Ngân quỹ của ngân hàng là những tài sản có tính thanh
khoản cao nhất, được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu
cầu khác của ngân hàng thương mại.
Ngân quỹ vừa đáp ứng nhu cầu dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân
hàng nhà nước vừa bảo đảm nhu cầu chi trả của ngân hàng. Mỗi Ngân
hàng cần duy trì ngân quỹ với tỷ lệ phù hợp với nhu cầu vốn của khách
hàng theo từng thời điểm khác nhau sao cho hợp lý, bảo đảm khả năng chi
trả.
Bảo lãnh : Là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi
khách hàng này không thực hiện đúng như cam kết với bên được hưởng
bảo lãnh.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: Theo thỏa thuận với khách hàng
Ngân hàng mua tài sản và cho khách hàng mua lại. Trong thời gian thuê
hàng tháng, hàng quý khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản tiền
gọi là tiền thuê tài sản. Khi hết thời hạn thuê đã thỏa thuận trong hợp đồng
thì khách hàng có thể mua hoặc không mua lại tài sản đó. Cho thuê tài sản
trung và dài hạn (Leasing) được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài
sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng đã thu được.
Mua bán ngoại tệ: Các ngân hàng đều có xu hướng đa dạng hoá
hình thức kinh doanh của mình nhằm tăng lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
Một trong những danh mục mà các ngân hàng đã lựa chọn đó là mua bán
ngoại tệ, một hình thức kinh doanh đem lại hiệu quả cao. Lợi nhuận mà
ngân hàng thu được từ nghiệp vụ mua bán ngoại tệ là phần chênh lệch giữa
tỷ giá mua vào và bán ra.
Tài trợ các hoạt động của chính phủ: Chính Phủ thường có những
khoản chi tiêu lớn,và bất thường nên khả năng vốn nhiều khi không thể
đáp ứng được khi đó không còn sự lựa chọn tối ưu nào khác là phải có sự
hỗ trợ từ phía Ngân hàng. Có nhiều phương thức tài trợ khác nhau như
mua trái phiếu chính phủ hoặc cho vay ưu đãi.
Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, môi
giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ đại lý.
1.1.3-NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.3.1 -Khái niệm về cho vay:
Cho vay là một nghiệp vụ rất quan trọng trong lĩnh vực hoạt động của
Ngân Hàng , nguồn thu chủ yếu của Ngân Hàng lấy từ hoạt động cho vay,
theo thống kê thì nguồn thu lấy từ hoạt động cho vay chiếm 60%-65% tổng
nguồn thu. Theo Quyết Định số 28/2001/QĐ- NHNN ngày 15/8/2001 của
thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước định nghĩa: cho vay là một hình thức của
cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền
để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.1.3.2 -phân loại cho vay:
Ta có thể phân loại cho vay theo các tiêu chí sau:
*Căn cứ vào thời hạn cho vay:
+ Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, mục
đích chính của khoản cho vay này là các doanh nghiệp bù đắp vốn lưu
động hoặc dùng đầu tư vào tài sản lưu động có vòng quay thu hồi vốn
nhanh, hoặc tiêu dùng cá nhân tạm thời.
+ Cho vay trung hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5
năm. Sử dụng mua sắm tài sản cố định, cải tiến trang thiết bị, máy móc,
nhà xưởng hoặc đầu tư vào các dự án có quy mô vừa và nhỏ có khả năng
thu hồi vốn nhanh đảm bảo có thể hoàn trả vốn cho ngân hàng theo hợp
đồng tín dụng.
+ Vay dài hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm. Nguồn vốn
này các doanh nghiệp dùng để đầu tư tài sản cố định như mua sắm máy
móc, trang thiết bị hiện đại, xây dựng nhà xưởng có quy mô lớn, sử dụng
lâu dài hoặc đầu tư vào các dự án lớn.
Việc phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín
dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Việc xác định thời hạn
trên cũng chỉ mang tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác
định trước được chính xác thời hạn. Nhìn chung tỷ trọng tín dụng ngắn hạn
tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn:
Các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng, mặt
khác tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao
hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ
lệ này như kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh
khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và đề phòng rủi ro trong tín dụng
trung và dài hạn…
*Căn cứ vào phương thức cho vay:
+ Cho vay từng lần: Là hình thức cho vay mà mỗi món vay được tách biệt
thành các khế ước nhận nợ khác nhau. Cho vay từng lần là hình thức cho
vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với những khách hàng không có
nhu cầu vay thường xuyên. Đây là khoản cho vay bù đắp thiếu hụt vốn tạm
thời khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt. Với nghiệp vụ
cho vay từng lần ngân hàng có thể kiểm soát chặt chẽ từng món vay.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng
thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được
cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay
vốn của khách hàng, hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ,
đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Ngân hàng ước lượng hạn mức tín
dụng và lập kế hoạch cho vay. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho
những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường
xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh, khi đến vay khách hàng chỉ cần
trình bày phương án sử dụng vốn vay, nộp các giấy tờ chứng từ cần thiết,
sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ ngân hàng sẽ tiến
hành giải ngân cho khách hàng. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn
định trước ngày trả nợ , khi khách hàng có thu nhập ngân hàng sẽ tiến hành
thu hồi nợ, do đó tạo chủ động trong quản lý ngân qũy, tuy nhiên các kỳ
vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm
soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
+ Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn
giản phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá
nhân. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về
thời gian và quy mô, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng trong quá trình thanh toán nhanh, chủ động và kịp thời. Hình
thức này nhìn chung chỉ áp dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy
cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
+ Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể
cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Đầu
năm hoặc đầu quý khách hàng phải làm đơn xin vay luân chuyển, ngân
hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín
dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá vàkhả năng tiêu thụ. Việc cho vay dựa
trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải
nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong
thời gian tới. Cho vay luân chuyển thường áp dụng với các doanh nghiệp
sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên
với ngân hàng.
+ Cho vay theo dự án đầu tư: Là hình thức cho vay vốn nhằm thực hiện
các dự án đầu tư phát triển kinh tế, xã hội phục vụ đời sống. Khoản cho
vay thực hiện dự án đầu tư thường khá lớn nên khi vay vốn người đi vay
phải trình bày kế hoạch dự án đầu tư, tính khả thi của dự án…sau đó ngân
hàng sẽ tiến hành kiểm tra và thẩm định dự án rồi quyết định cho vay hay
không cho vay.
+ Cho vay hợp vốn: Là phương thức cho vay mà ngân hàng cùng với một
số tổ chức tín dụng khác hợp tác cùng cho vay một dự án nào đó hoặc một
doanh nghiệp, cá nhân khác có nhu cầu vay vốn.
*Căn cứ vào phương thức giải ngân:
+ Cho vay giải ngân một lần: Là hình thức ngân hàng sẽ giải ngân một lần
duy nhất cho khách hàng. Hình thức này thường áp dụng với những khoản
vay nhỏ, có thời hạn vay ngắn hoặc trung hạn.
+ Cho vay giải ngân nhiều lần: Là hình thức ngân hàng sẽ giải ngân thành
nhiều lần trong thời hạn giải ngân ghi trong hợp đồng ký kết. Hình thức
này chủ yếu áp dụng với những khoản vay dùng đầu tư vào những dự án
có quy mô lớn, thời hạn dài chia thành nhiều giai đoạn thực hiện.
*Căc cứ vào độ tin cậy của bên vay vốn
+ Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba: Là hình
thức cho vay trong đó người đi vay phải bảo đảm bằng tài sản của mình
hoặc được bên thứ ba bảo lãnh. Để phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra
bất cứ lúc nào ngân hàng đòi hỏi người đi vay phải có sự đảm bảo, trong
trường hợp khách hàng mất khả năng chi trả thì ngân hàng còn có cơ sở để
thu hồi lại vốn của mình.
+ Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba:
Là hình thức cho vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần đến tài
sản cầm cố, hế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Loại hình cho vay này
chủ yếu áp dụng với những khách hàng truyền thống của ngân hàng, và đối
với những khoản vay không lớn.
*Căn cứ vào phương thức trả nợ:
+ Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng thoả thuận. Cho
vay trả góp thường được áp dụng đối với những khoản vay trung và dài
hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền, số tiền trả nợ mỗi lần
phải tính toán phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng. Ngân hàng
thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất
định, cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng
hoá mua trả góp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của
người vay, chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi
suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
+ Cho vay phi trả góp: Là hình thức cho vay mà người đi vay phải trả cả
gốc và lãi cho ngân hàng khi khoản vay đáo hạn.
*Căn cứ vào xuất sứ khoản vay:
+ Cho vay trực tiếp: Là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho vay trực tiếp
đối với người đi vay vốn.
+ Cho vay gián tiếp: Bên cạnh hình thức cho vay trực tiếp ngân hàng cũng
phát triển thêm các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay
thông qua các tổ chức trung gian tổ, đội, hội nhóm như nhóm sản xuất, hội
nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ…Các tổ chức này thường liên
kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn
nhau. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều
món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp
như vậy cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí giảm rủi ro khi cho
vay.
1.1.3.3 -Các quy định trong cho vay
a. Điều kiện cho vay:
Ngân hàng chỉ quyết định cho vay đối với những khách hàng có đầy đủ
những điều kiện sau:
Thứ nhất là: Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng vốn vay.
Thứ hai là: Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Ngân hàng chỉ cấp
vốn cho khách hàng sản xuất kinh doanh những mặt hàng, dịch vụ được
pháp luật cho phép theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoặc giấy
phép hành nghề ( nếu có).
Thứ ba là: Có nguồn thu và phương án vay-trả nợ đảm bảo khả năng trả nợ
gốc, lãi và phí trong thời gian cam kết vay.
Thứ tư là: Có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, đem lại hiệu quả khi
đưa vào thực hiện và không trái với quy định của pháp luật.
Thứ năm là: Phải thực hiện bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của pháp
luật.
b. Đối tượng cho vay:
Những đối tượng được Ngân Hàng xem xét cho vay:
- Các khách hàng Việt Nam: Bao gồm các cá nhân, doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức khác có đủ điều kiện tại Điều
94 của Bộ luật dân sự, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.
- Các pháp nhân nước ngoài: Phải có năng lực pháp luật dân sự và năng
lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có
quốc tịch, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ luật Dân sự nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Vệt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam
quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia
quy định. Việc cho vay các đối tượng này được thực hiện riêng theo quy
định của NHCT VN.
c. Những nhu cầu vốn không được cho vay:
- Thứ nhất là: Để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản
mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi.
- Thứ hai là: Để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà
pháp luật cấm.
- Thứ ba là: Để nộp thuế trực tiếp cho ngân sách nhà nước trừ số tiền xuất
khẩu, nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất nhập khẩu.
- Thứ tư là: Để trả nợ gốc, lãi vốn vay cho NHCT VN hoặc TCTD khác,
trừ trường hợp cho vay số tiền lãi vay trả cho NHCT VN trong thời hạn thi
công, chưa bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay
trung và dài hạn để đầu tư tài sản cố định mà khoản lãi tiền vay được tính
vào giá trị tài sản cố định đó.
- Thứ năm là: Để đáp ứng nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật
cấm.
d. Quy trình cho vay:
Để đảm bảo tính an toàn trong cho vay các ngân hàng muốn cho vay cần
thực hiện theo các bước sau:
Bước một là: Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn.
+ Đối với khách hàng có quan hệ tín dụng lần đầu cần phải hướng dẫn một
cách chi tiết và cung cấp những thông tin cho khách hàng, tư vấn và thiết
lập hồ sơ theo quy định của ngân hàng nhà nước
+ Đối với khách hàng đã có quan hệ tín dụng thì cán bộ tín dụng sẽ hướng
dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ, đối chiếu ,kiểm tra và tiếp nhận hồ sơ.
Bước hai là: Thẩm định các điều kiện vay vốn.
Để thực hiện tốt bước này cần phải làm tốt những yếu tố sau:
- Kiểm tra hồ sơ vay vốn và mục đích sử dung vốn.
+ Kiểm tra hồ sơ khách hàng: cần kiểm tra tính xác thực, hợp pháp, hợp lệ
của các giấy tờ văn bản trong danh mục hồ sơ khách hàng.
+ Kiểm tra hồ sơ khoản vay và hồ sơ bảo đảm tiền vay: Cần kiểm tra tính
xác thực, hợp pháp, hợp lệ của từng loại hồ sơ. Đối với Doanh Nghiệp các
báo cáo tài chính dự tính trong ba năm tới và phương án sản xuất kinh
doanh, dự án đầu tư, khả năng vay trả, nguồn trả, việc kiểm tra và phân
tích phải đảm bảo đúng quy trình. Ngoài ra cần kiểm tra sự phù hợp về
ngành nghề ghi trong đăng ký kinh doanh với ngành nghề kinh doanh hiện
tại của doanh nghiệp và phù hợp với phương án dự kiến đầu tư, xu hướng
phát triển của ngành nghề trong tương lai.
+ Kiểm tra mục đích vay vốn: Cần kiểm tra xem nhu cầu vay vốn có thuộc
đối tượng cho vay hay không, đồng thời kiểm tra tính hợp pháp của mục
đích vay vốn. Đối với những khoản vay vốn bằng ngoại tệ cần kiểm tra
mục đích vay vốn đảm bảo phù hợp với quy định quản lý ngoại hối hiện
hành về các đối tượng vay vốn ngoại tệ.
- Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản
xuất kinh doanh: Nguồn thông tin phải lấy được từ nhiều chiều, nhiều cách
khác nhau như lấy thông tin từ hồ sơ vay vốn, từ việc đi thực tế tại nơi sản
xuất kinh doanh, qua phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, mạng
máy tính…từ các cơ quan quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, qua
bạn hàng…
- Xác minh và kiểm tra thông tin
- Phân tích, thẩm định phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư: Ngân
hàng tiến hành phân tích thẩm định nhằm đưa ra kết luận về tính khả thi,
hiệu quả của phương án, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra để
phục vụ cho việc quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay, kết quả phân
tích thẩm định tạo tiền đề để đảm bảo hiệu quả cho vay, thu được nợ gốc
đúng hạn, hạn chế, phòng ngừa rủi ro và là cơ sở để xác định số tiền cho
vay, thời hạn cho vay, dự kiến tiến độ giải ngân, các điều kiện cho vay…
tạo tiền đề cho khách hàng hoạt động có hiệu quả và đảm bảo mục tiêu đầu
tư của Ngân Hàng.
Bước ba là: Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao
nhận giấy tờ và tài sản bảo đảm:
Ngân Hàng kiểm tra lại toàn bộ các điều khoản hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo đảm tiền vay theo đúng các nội dung và điều kiện đã được duyệt,
và đảm bảo chắc chắn rằng nội dung của các hợp đồng này tuân thủ các
quy định hiện hành của pháp luật.
Bước bốn là: Giải ngân và kiểm tra giám sát khoản vay.
Sau khi ký kết hợp đồng thì ngân hàng sẽ tiến hành giải ngân một lần
hoặc nhiều lần cho khách hàng theo đúng hợp đồng thoả thuận giữa hai
bên, đi đôi với việc cấp tín dụng ngân hàng tiến hành kiểm soát tín dụng
như kiểm tra xem việc sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích hay
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét