Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014

Địa vị pháp lý của cơ quan Kiểm toán Nhà nước Việt nam hiện nay

Chính phủ giao hoặc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu, báo cáo kết
quả kiểm toán cho Thủ tướng Chính phủ và cung cấp kết quả kiểm toán cho các
cơ quan Nhà nước khác theo quy định của Chính phủ. Định kỳ báo cáo Thủ
tướng Chính phủ về thực hiện chương trình kế hoạch kiểm toán
Nhận xét đánh giá và xác nhận việc chấp hành các chính sách, chế độ tài
chính kế toán về sự chính xác trung thực hợp pháp của các tài liệu kế toán, báo
cáo quyết toán đã được kiểm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội
dung đã nhận xét đánh giá và xác nhận.
Thông qua việc kiểm toán, góp ý kiến với các đơn vị được kiểm toán sửa
chữa những sai sót, vi phạm để chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán
của đơn vị. Kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý những vi phạm chế độ tài
chính kế toán của Nhà nước đề xuất với Thủ tướng Chính phủ việc sửa đổi cải
tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần thiết
Tham gia ý kiến với Bộ tài chính trong việc xây dựng và ban hành các chế
độ, chuẩn mực, phương pháp kiểm toán
Quản lý các hồ sơ, tài liệu đã được kiểm toán theo quy định của Nhà
nước, giữ bí mật tài liệu, số liệu kế toán theo quy định
Quản lý tổ chức bộ máy Nhà nước theo quy địmh chung của Chính phủ.
Tổ chức huấn luyện bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ KTV
Điều 5- Khi thực hiện nhiệm vụ đó KTNN có quyền và trách nhiệm sau
Chỉ tuân theo pháp luật và phương pháp chuyên môn nghiệp vụ đã được
Nhà nước quy định
Được yêu cầu các dơn vị được kiểm toán gửi báo cáo quyết toán và cung
cấp các thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán
Được yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo pháp luật đối với tổ
chức, cá nhân có những vi phạm chế độ tài chính kế toán của Nhà nước cũng
như cản trở công tác kiểm toán, cung cấp sai thông tin
Cung cấp hồ sơ tài liệu kế toán theo yêu cầu bằng văn bảncủa cơ quan
pháp luật có thẩm quyền
Chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, tài liệu và kết luận của
KTV độc lập đã thuê.
Chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi vi phạm của tổ chức
kiểm toán, KTV khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán và về những hậu quả xấu do
khuyết điểm của tổ chức kiểm toán và KTV mang lại cho các đối tượng kiểm
toán
Với nhiệm vụ được giao khá nặng nề như vậy thì cơ quan KTNN Việt
nam – cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Nhà nước hoạt động thường xuyên
trong hệ thống các cơ quan chuyên trách kiểm tra tài chính Nhà nước – cần được
đảm bảo một vị trí xứng đáng để thực thi tốt nhiệm vụ của mình. Vấn đề đặt ra
hiện nay là chúng ta phải nhanh chóng phải xác lập cho KTNN một vị trí đầy đủ
và hợp lý hơn
Vai trò, chức năng của KTNN Việt nam.
Cùng với chính sách mở cửa, kiểm toán đã và đang trở thành một nhân tố
không thể thiếu trong sự phát triển sôi động của nền kinh tế thị trường.
Theo điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN ban hành kèm theo Quyết
định số 61- TTg ngày 24/1/1995 quy định :
Điều 1 – KTNN giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện việc kiểm tra, xác
nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu kế toán, báo cáo quyết toán của
các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị kinh tế Nhà nước và các
đoàn thể, tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do NSNN cấp.
Điều 2 – KTNN thực hiện kiểm toán các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo
quyết toán ngân sách của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trước khi
trình ra HĐND và tổng quyết toán NSNN của Chính phủ trươcs khi trình Quốc
hội, báo cáo quyết toán của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ
quan thuộc Quốc hội, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các đơn vị sự
nghiệp công, đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do
NSNN cấp, báo cáo quyết toán của các chương trình dự án các công trình đầu tư
của Nhà nưowcs và các DNNN… Theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được
Chính phủ phê duyệt và các nhiệm vụ đột xuất do Thủ tướng Chính phủ giao
hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu
Thông qua hoạt động của mình KTNN đã xác nhận tính đúng đắn, hợp
pháp của các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của doanh nghiệp, giúp
cho các cấp quản lý thị trường nắm được thông tin đúng đắn về doanh nghiệp
củng cố lòng tin cho người lao động trong doanh nghiệp. KTNN đã phát hiện
những sai sót, khuyết điểm ( vi phạm ) trong thực hiện chính sách chế độ tài
chính – kế toán của Nhà nước, những quy định của pháp luật. Những vấn đề mà
KTNN phát hiện đã trực tiếp giúp công tác quản lý, công tác chuyên môn nghiệp
vụ tài chính –kế toán của các doanh nghiệp đi vào nề nếp, tuân thủ các chế độ
chính sách hiện hành của Nhà nước, tự doanh nghiệp phải xem xét, đánh giá lại,
rút kinh nghiệm để có biện pháp chỉ đạo và thực hiện tốt hơn.
KTNN còn phát hiện những vấn đề chưa thật hợp lý, thiếu đồng bộ trong
hệ thống pháp luật cũng như các văn bản quy định của Nhà nước, giúp doanh
nghiệp nói lên những vướng mắc khó khăn trong việc thực hiện các chính sách,
chế độ làm căn cứ quan trọng giúp Chính phủ, Quốc hội có những quyết định
trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống văn bản dưới luật
ngày càng đồng bộ hơn hợp lý hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực
hiện pháp luật và chính sách chế độ ngày càng tốt hơn.
Bên cạnh đó, KTNN còn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Quốc
hội thẩm định dự toán NSNN và đưa ra các kiến nghị về dự toán NSNN để Quốc
hội xem xét. Đồng thời làm phản biện theo yêu cầu của Quốc hội về các dự án,
chương trình quốc gia các dự án đầu tư các công trình quy mô lớn. Cung cấp
cho Quốc hội và Chính phủ những thông tin chính xác khách quan về tình hình
thu – chi NSNN để Quốc hội phán quyết quyết toán và Chính phủ có căn cứ để
đưa ra các quyết định về quản lý NSNN.
Ngoài ra KTNN có thể làm tư vấn cho Quốc hội về một số mặt như có thể
giúp xem xét quá trình xây dựng các dự luật đặc biệt là các dự luật về tài chính
ngân sách, tín dụng, kế toán kiểm toán …
Thực tế đã cho thấy dù KTNN mới ra đời được gần 7 năm còn rất non trẻ
nhưng đã đạt được những thành tích rất đáng tự hào. Tính cho đến đầu năm
2001 KTNN đã tiến hành kiểm toán NSNN trên 61 tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương trong cả nước, 10 Bộ ngành, 7 Quân khu quân chủng, Tổng cục và
cục của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, 6 chương trình mục tiêu của Chính phủ,
13/18 Tổng công ty 91, 30 Tổng công ty 90 và nhiều DNNN.
Qua đó KTNN đã phát hiện những sai phạm trong quá trình thực hiện thu
chi NSNN, tăng thu tiết kiệm chi cho NSNN trên NSNN trên 3000 tỷ đồng trong
đó tăng thu về thuế là gần 2000 tỷ đồng tiết kiệm chi cho NSNN là 800 tỷ đồng;
đưa vào quản lý qua NSNN gần 700 tỷ đồng góp phần chống lãng phí chống thất
thoát NSNN và công quỹ quốc gia thiết lập trật tự kỷ cương trong công tác quản
lý tài chính; đồng thời cung cấp những thông tin dữ liệu tin cậy cho Quốc hội,
Chính phủ, HĐND và UBND các cấp trong việc quản lý NSNN, kiến nghị tháo
gỡ khó khăn hoặc đưa ra những giải pháp hữu hiệu trong việc củng cố các doanh
nghiệp Nhà nước. Kết quả lớn nhất của KTNN không chỉ là số tiền hàng ngàn tỷ
đồng tiết kiệm được cho NSNN mà còn giúp cho các cơ quan Nhà nước biết
đến một công cụ kiểm soát tài chính mới rất quan trọng và hình thành ý thức
mới trong quản lý sử dụng NSNN. Trước những hoạt động của KTNN cùng với
những công cụ tài chính khác tự các cơ quan tổ chức Nhà nước phải chấn chỉnh
công tác quản lý tài chính củng cố và tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ và
công tác kiểm toán nội bộ.
Chính vì vậy KTNN ngày càng khẳng định được vị trí và vai trò quan
trọng trong bộ máy Nhà nước và sự cần thiết phải tăng cường năng lực của
KTNN như một công cụ kiểm tra, kiểm soát tài chính không thể thiếu được của
Nhà nước pháp quyền.
Sự cần thiết phải có địa vị pháp lý cho cơ quan KTNN.
Nghiên cứu hoạt động của cơ quan KTNN của nhiều nước trên thế giới kể
cả các nước có KTNN cách đây 2-3 thế kỷ đến các nước chỉ có KTNN khoảng
một thập kỷ đều cho chúng ta thấy rằng :
Tạo dựng địa vị pháp lý đủ cho KTNN là vấn đề quan trọng hàng đầu cho
KTNN hình thành phát triển và hoạt động. Từ kinh nghiệm có tính nguyên tắc
ấy của các nước cho thấy, KTNN hình thành và hoạt động phải có pháp luật bảo
đảm. Bởi vì, KTNN xuất hiện là do yêu cầu kiểm tra tài chính công của tất cả
các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước. Một sự kiểm tra tài chính công
rộng lớn và phức tạp động chạm đến lợi ích cơ bản của Nhà nước, của đơn vị
được kiểm toán không thể trao cho bất kỳ cơ quan, tổ chức nào mà phải trao cho
cơ quan Nhà nước được pháp luật quy định, hơn nữa là luật của các luật quy
định.
Hoạt động KTNN là một hoạt động kiểm tra tài chính đứng ngoài hoạt
động của hệ thống tài chính. Hoạt động đó phải có pháp luật làm chỗ dựa, làm
căn cứ để không những thực thi được quyền và trách nhiệm có hiệu lực mà còn
lấy pháp luật để làm thước đo khi phán xét các hiện tượng và quá trình tài chính
đúng sai, hợp pháp hay vi phạm pháp luật. Hoạt động KTNN là hoạt động độc
lập, chỉ tuân theo pháp luật thì pháp luật phải quy định địa vị pháp lý cho hoạt
động đó.
Có được địa vị pháp lý cao, KTNN mới có thể thực hiện kiểm toán các
hoạt động tài chính, hướng dẫn các loại hình kiểm toán thực hiện các văn bản
pháp luật của Nhà nước những chuẩn mực kiểm toán và nghề nghiệp kiểm toán

Hơn nữa, trong quan hệ quốc tế nhất là với tổ chức quốc tế của các cơ
quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) cơ quan kiểm toán khu vực (ASOSAI) cũng
như quan hệ song phương với các cơ quan KTNN các nước, việc có đủ địa vị
pháp lý là yêu cầu không thể thiếu được trong hội nhập và hợp tác quốc tế.
Với vai trò, chức năng quan trọng của KTNN và yêu cầu cần thiết phải
tạo dựng cho KTNN một vị thế thích hợp để có hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, tạo môi trường pháp lý đầy đủ và hiệu lực
cho tổ chức và hoạt động của KTNN.
Cần tiếp thu những kinh nghiệm của các nước và sự giúp đỡ của
INTOSAI xây dựng luật KTNN, trước mắt là pháp lệnh KTNN trong đó xác
định rõ vị trí quyền hạn của KTNN là cơ quan có chức năng cao nhất trong việc
kiểm tra tài chính công của Nhà nước Việt nam. Để nâng cao địa vị pháp lý của
cơ quan KTNN tính độc lập khách quan và những nguyên tắc hoạt động của
KTNN phải được chế định bằng Hiến pháp. Đồng thời KTNN cần khẩn trương
xây dựng hoàn chỉnh và hoàn thiện các chuẩn mực, phương pháp, kỹ thuật và
quy trình kiểm toán, làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng kiểm toán và kiểm
soát chất lượng kiểm toán của các kiểm toán viên.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ cấu tổ chức phù hợp, đủ mạnh để thực hiện
các nhiệm vụ được giao, phát triển mạng lưới các KTNN khu vực thích hợp theo
từng giai đoạn đủ để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán NSNN trên địa bàn địa
phương. Cung cấp và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy KTNN Trung ương theo
hướng chuyên môn hoá kiểm toán theo ngành hẹp tăng cường năng lực cho các
bộ phận có chức năng tham mưu chuyên môn nghiệp vụ của khối văn phòng.
3. Những bước tiến trong việc xác lập địa vị pháp lý cho cơ quan kiểm
toán Nhà nước Việt nam
Chúng ta đều biết rằng cơ quan kiểm toán Nhà nước Việt nam được thành
lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ và sau đó là Quyết
định số 61/TTg ngày 21/1/1995 của Thủ tướng Chính phủ ban hành điều lệ tổ
chức và hoạt động của KTNN .
Điều 1 – Nghị định 70/CP quy định : “ Cơ quan KTNN là cơ quan do
Chính phủ thành lập để giúp Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận
tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của
cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước và các đoàn
thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do NSNN cấp”. Ngoài các
chức năng trên luật NSNN năm 1996 có những quy định thuộc về chức năng,
nhiệm vụ của kiểm toán Nhà nước tại các điều 69, 70, 73, 74 đã nâng địa vị của
KTNN lên một mức mới, rằng : “ KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ, luật
NSNN xác định trách nhiệm của KTNN là báo cáo kết quả kiểm toán với Chính
phủ, báo cáo với Quốc hội, UBTVQH khi có yêu cầu, trách nhiệm làm rõ những
vấn đề Quốc hội, HĐND yêu cầu ” . Hơn thế nữa trong nghị định 70/CP chưa
nêu tính độc lập của KTNN thì ở trong luật NSNN ở điều 74 đã xác định tính
độc lập của cơ quan KTNN.
Điều 67( khoản 3) của Nghị định 51/1998/NĐ- CP ngày 18/07/1998 của
Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 87/CP ngày
19/12/1996 quy định chi tiết việc phân cấp quản lý lập chấp hành và quyết toán
NSNN nêu rõ “ Sở Tài chính – Vật giá có trách nhiệm thẩm tra báo cáo quyết
toán thu chi NSNN huyện, lập báo cáo thu chi NSNN cấp tỉnh, tổng hợp thu chi
NSNN trên địa bàn tỉnh và báo cáo quyết toán thu chi ngân sách tỉnh ( bao gồm
báo cáo quyết toán thu chi NSNN cấp tỉnh, huyện ) trình UBND xem xét để gửi
Bộ tài chính và cơ quan KTNN khu vực đồng thời UBND tỉnh trình HĐND phê
duyệt. Trường hợp báo cáo quyết toán năm của ngân sách tỉnh do HĐND tỉnh
phê duyệt có thay đổi so với báo cáo quyết toán năm do UBND tỉnh gửi Bộ tài
chính thì UBND tỉnh phải có báo cáo bổ sung điều chỉnh gửi Bộ taì chính và cơ
quan KTNN khu vực. Đồng thời luật Ngân hàng năm 1997 có quy định trách
nhiệm của KTNN “ hàng năm phải kiểm toán báo cáo quyết toán của Ngân hàng
Nhà nước” .
Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm chức vụ Tổng kiểm toán của Việt nam
được quy định tại điều 3 Nghị định 70/CP “ Tổng kiểm toán, các Phó Tổng kiểm
toán do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm”.
Trong khoảng thời gian 6 năm kể từ khi thành lập KTNN đã đạt được
những kết quả bước đầu trên mọi phương diện đặc biệt là những bước tiến đáng
kể trong việc xác lập địa vị pháp lý của mình trong một thời gian ngắn khẳng
định được vai trò quan trọng của KTNN.
Sự ra đời của KTNN hoàn toàn phù hợp với xu hướng cải cách chính ở
nước ta và phù hợp với thông lệ quốc tế góp phần không nhỏ trong việc tăng thu
giảm chi cho NSNN hàng ngàn tỷ đồng, hạn chế tình trạng trốn thuế, góp phần
làm giảm tỷ trọng các DNNN làm ăn thua lỗ, nhất là trong khu vực công nghiệp
địa phương.
Trước đây, nhiều hoạt động kinh tế của doanh nghiệp còn nằm ngoài sự
kiểm soát của hệ thống kế toán, thống kê, ngân hàng đến nay từng bước đi vào
nề nếp, bước đầu góp phần thúc đẩy thực hiện việc tiết kiệm chi, giảm bớt tình
trạng chi tiêu lãng phí, chi sai mục đích, sai chế độ. Đặc biệt hoạt động KTNN
góp phần hạn chế thất thoát tài sản Nhà nước có tác dụng răn đe, phòng ngừa
những vi phạm pháp luật về quản lý kinh tế, góp phần thực hiện tốt luật NSNN
và pháp lệnh kế toán thống kê. Trong quá trình hoạt động, KTNN đã phát hiện
và đề xuất với các cơ quan có liên quan những bất cập trong thực tế về những
quy định của pháp luật của cơ chế chính sách về quản lý kinh tế góp phần hoàn
thiện cơ chế chính sách và lành mạnh nền tài chính quốc gia.
4. Những vấn đề còn tồn tại
Địa vị pháp lý của cơ quan KTNN chưa ngang tầm với nhiệm được giao
Hiện nay, so với đòi hỏi của công tác kiểm toán, đối chiếu với địa vị pháp
lý của các cơ quan kiểm toán Nhà nước trên thế giới chúng ta thấy rằng : KTNN
của chúng ta mặc dù được coi là công cụ quản lý tài chính quan trọng của cơ
quan quyền lực Nhà nước nhưng đến nay KTNN vẫn chưa có vai trò và địa vị
pháp lý tương xứng và cần thiết để đảm bảo tính độc lập khách quan trong hoạt
động kiểm tra, kiểm soát việc thu, chi NSNN. Chúng ta chưa có một văn bản
quy phạm pháp luật tầm cỡ luật hoặc pháp lệnh để làm căn cứ thực thi nhiệm vụ
có hiệu lực cao.
Với chức năng và nhiệm vụ được giao là rất nặng nề song quyền quyết
định, tổ chức bộ máy và biên chế của KTNN vẫn còn chưa phù hợp. Hiện nay
KTNN mới chỉ thực hiện được một phần chức năng nhiệm vụ của mình, nhưng
kết quả đạt được vẫn còn rất hạn chế, số lượng công việc đã kiểm toán được còn
ít, chất lượng kiểm toán còn thấp chưa có tính thuyết phục cao đối với các cơ
quan tổ chức được kiểm toán và quần chúng nhân dân.
Đến tháng 9 năm 2000 KTNN mới hoàn thành 28 cuộc kiểm toán đạt 50%
kế hoạch. Kết quả mới kiểm toán Báo cáo quyết toán NSNN năm 1999 của 2 Bộ
ngành, 3/61 tỉnh thành phố, 6/500 quận huyện, 8 DNNN và 7 đơn vị thuộc Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an và các doanh nghiệp kinh tế Đảng, báo cáo quyết toán
của 2 công trình XDCB và thẩm định báo cáo quyết toán NSNN của 3 Bộ ngành
9 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy khối lượng công việc làm được
so với yêu cầu phải làm thì còn quá thấp.
Về cơ cấu tổ chức của cơ quan KTNN.
Điều 4 của Nghị định 70/CP có quy định các đối tượng kiểm toán : Kiểm
toán NSNN, Kiểm toán đầu tư XDCB và các chương trình dự án vay, nợ, viện
trợ Chính phủ, kiểm toán doanh nghiệp, kiểm toán các chương trình đặc biệt …
Hệ thống KTNN được chia thành: Kiểm toán trung ương và Kiểm toán khu vực
( Kiểm toán khu vực phía Bắc, miền Trung, phía Nam và Tây Nam Bộ). Việc
này đã làm nảy sinh tình trạng chồng chéo và không rõ ràng về thẩm quyền chức
năng, nhiệm vụ giữa kiểm toán trung ương và kiểm toán khu vực, giữa Vụ kiểm
toán NSNN và các đơn vị khác trong cơ quan KTNN.
Việc KTNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ cũng còn nhiều bất cập.
KTNN là một cơ quan đặc biệt mà theo như tổ chức INTOSAI – tổ chức quốc tế
của các cơ quan kiểm toán tối cao đã cho rằng sự cần thiết của tính độc lập và
khách quan trong kiểm toán là vấn đề sống còn. Vì thế KTNN cần được đảm
bảo để hoạt động chỉ tuân theo pháp luật và phương pháp chuyên môn nghiệp vụ
mà Nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật khi thực thi kiểm toán không
chịu bất cứ một áp lực từ một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào.
Khi cơ quan KTNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ thì ít nhiều có sự hạn
chế tính độc lập và khách quan trong việc thực hiện các chức năng của nó vì
người kiểm tra và người bị kiểm tra đều đặt dưới sự kiểm soát của một chủ thể
vì vậy không tránh khỏi sự chi phối và tác động từ bên ngoài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét