Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014

Ảnh hưởng của công ước Viên 1980 đến các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của các Doanh nghiệp Việt Nam

quản hàng hóa trong trường hợp có tranh chấp. Đây là chương có số lượng điều
khoản lớn nhất, cũng là chương chứa đựng những quy phạm hiện đại, tạo nên ưu việt
của Công ước Viên 1980.
Các nội dung về vi phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm hợp đồng được lồng
ghép trong chương II, chương III và chương V. Trong chương II và chương III, sau
khi nêu các nghĩa vụ của người bán và người mua, Công ước Viên 1980 đề cập đến
các biện pháp áp dụng trong trường hợp người bán/người mua vi phạm hợp đồng.
Ngoài ra còn có một số biện pháp không có tính chất chế tài hoặc nhằm mục
đích trừng phạt bên vi phạm
+ Biện pháp giảm giá (Điều 50)
+ Biện pháp bên bị vi phạm gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ để tạo điều
kiện cho bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng (Điều 47 khoản 1 và Điều 63
khoản 1)
+ Những biện pháp mà bên vi phạm có thể đưa ra nhằm khắc phục những
thiệt hại do hành vi vi phạm của mình gây ra (Điều 48 khoản 1).
Công ước cũng quy định rõ trường hợp áp dụng các biện pháp cụ thể (ví dụ
biện pháp hủy hợp đồng hay đòi thay thế hàng chỉ được áp dụng trong trường hợp vi
phạm cơ bản- khái niệm vi phạm cơ bản được nêu tại Điều 25).
- Phần 4: Các quy định cuối cùng (Điều 89 - 101). Phần này quy định về các thủ
tục để các quốc gia ký kết, phê chuẩn, gia nhập Công ước, các bảo lưu có thể áp
dụng, thời điểm Công ước có hiệu lực và một số vấn đề khác mang tính chất thủ tục
khi tham gia hay từ bỏ Công ước này.
II. Thành công của Công ước Viên 1980
5
Có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, đến nay, Công ước Viên 1980 đã trở thành một
trong các công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất.
So với các công ước đa phương khác về mua bán hàng hóa (như các công ước Hague
1964), Công ước Viên 1980 là Công ước quốc tế có quy mô lớn hơn hẳn về số quốc
gia tham gia và mức độ được áp dụng. Với 74 quốc gia thành viên trong đó có các
quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau; các quốc gia phát triển cũng như
các quốc gia đang phát triển; các quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng như các quốc gia
theo đường lối xã hội chủ nghĩa nằm trên mọi châu lục và hầu hết các cường quốc về
kinh tế trên thế giới (Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Australia, Nhật Bản…), ước tính
Công ước này điều chỉnh các giao dịch chiếm đến ba phần tư thương mại hàng hóa
thế giới.
Sự thành công của Công ước Viên 1980 được khẳng định trong thực tiễn với hơn
2500 vụ tranh chấp đã được Tòa án và trọng tài các nước/quốc tế giải quyết có liên
quan đến việc áp dụng và diễn giải Công ước Viên 1980 được báo cáo. Tại các quốc
gia chưa phải là thành viên, Công ước vẫn được áp dụng, hoặc do các bên trong hợp
đồng lựa chọn Công ước Viên 1980 như là luật áp dụng cho hợp đồng, hoặc do các
tòa án, trọng tài dẫn chiếu đến để giải quyết tranh chấp. Nhiều doanh nhân tại các
quốc gia chưa phải là thành viên Công ước Viên 1980 đã tự nguyện áp dụng Công
ước này cho các giao dịch thương mại quốc tế của mình, bởi vì những ưu việt của
Công ước Viên 1980 so với luật quốc gia.
Năm 2008 đánh dấu sự thành công mới của Công ước Viên 1980 tại Châu Á, khi
mà Nhật Bản tham gia Công ước này. Với ảnh hưởng mạnh mẽ và rộng lớn về
thương mại hàng hóa của Nhật Bản ở Châu Á và trên thế giới, các chuyên gia dự báo
việc Nhật Bản - nền kinh tế hùng mạnh nhất Châu Á gia nhập Công ước Viên 1980
sẽ kéo theo nhiều hồ sơ gia nhập hay phê chuẩn từ các quốc gia khác, đặc biệt là các
quốc gia Châu Á.
Thương mại quốc tế được xem là một phần quan trọng của nền kinh tế thế giới.
Việc thống nhất và hài hòa luật pháp quốc tế và giảm thiểu các chi phí phát sinh về
6
hợp đồng thương mại là xu hướng phát triển tất yếu của thương mại quốc tế. Với ý
nghĩa như vậy, Công ước Viên đã thể hiện được:
- Thứ nhất, tăng cao tính hiệu quả là đơn giản hóa giao thương quốc tế bằng cách
xóa bỏ các rào cản pháp lý và tăng cường tính ổn định pháp luật của giao dịch quốc
tế bởi ngôn ngữ luật chung, quy mô và tính chất áp dụng của nó. So với các Công
ước đa phương khác, Công ước Viên là Công ước quốc tế có quy mô lớn hơn hẳn về
số quốc gia tham gia và mức độ được áp dụng, trở thành nguồn luật trong nước của
rất nhiều quốc gia.
- Thứ hai, Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và
Các nguyên tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu (PECL), dựa trên cơ sở nền tảng của
CISG, đã trở thành một nguồn luật quốc tế quan trọng, được nhiều quốc gia và doanh
nhân sử dụng trong thương mại giao dịch quốc tế.
- Thứ ba, Công ước Viên cũng được khuyến khích áp dụng cho các giao dịch
không thuộc khuôn khổ Công ước, nhiều doanh nhân thuộc các quốc gia chưa tham
gia Công ước Viên 1980 đã tự nguyện áp dụng áp dụng Công ước này cho các giao
dịch thương mại quốc tế của mình.
7
CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 ĐẾN HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
I. So sánh Công ước Viên và hệ thống Pháp luật ở Việt Nam
1. Luật áp dụng cho hợp đồng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam ở Điều 1 khoản 1 và Điều 4 khoản 1 luật
Thương Mại 2005, các hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo
luật Thương Mại và các nguồn luật có liên quan. Nếu trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế có dẫn chiếu đến luật Việt Nam thì khi xảy ra tranh chấp. Các bên sẽ phải
sử dụng luật chuyên ngành trước, nếu không có luật chuyên ngành thì sẽ áp dụng luật
Thương Mại 2005. Trong trường hợp luật Thương Mại 2005 không có quy định thì
sẽ áp dụng các quy định trong Bộ Luật Dân Sự (theo Điều 4 khoản 3 luật Thương
Mại 2005).
Đối với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết thì các điều ước quốc
tế đó có giá trị bắt buộc đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có liên quan.
Trong trường hợp có mâu thuẫn giữa điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia với
luật Việt Nam thì áp dụng điều ước quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tế Việt Nam chưa
tham gia bất kỳ điều ước quốc tế nào. Vì vậy các bên chỉ có thể áp dụng các điều ước
quốc tế, tập quán thương mại, luật nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế nếu có thỏa thuận trong hợp đồng với điều kiện các điều nước quốc tế, tập
quán thương mại và luật nước ngoài đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam (Điều 5 khoản 2 luật Thương Mại 2005)
Việt Nam chưa gia nhập Công ước Viên 1980 nên Công ước Viên sẽ chỉ điều
chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nếu được các bên lựa chọn và ghi rõ trong
hợp đồng. Khi đó các điều khoản và quy định của Công ước Viên 1980 sẽ điều chỉnh
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Hiện tại Việt Nam chưa có luật chuyên ngành về mua bán hàng hóa quốc tế, do
đó các quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều đa phần được dẫn chiếu
đến Luật Thương Mại 2005. Tuy nhiên, Luật Thương Mại 2005 lại chủ yếu hướng
đến việc mua bán hàng hóa nội địa. Do đó, một số quy định trong đó chưa thật sự phù
hợp với sự phức tạp của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
8
2. Hiệu lực của hợp đồng
- Về vấn đề hiệu lực hợp đồng, luật Thương Mại 2005 không có quy định về các
điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có hiệu lực. Theo quy định khi luật
Thương Mại không quy định thì phải dẫn chiếu đến Bộ Luật Dân Sự. Theo Điều 22
khoản 1 và Điều 429 khoản 1 Bộ Luật Dân Sự 2005 có quy định giao dịch dân sự
(hay hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) có hiệu lực khi có đủ một số điều kiện sau:
+ Chủ thể có năng lực hành vi dân sự
+ Đối tượng của hợp đồng mua bán là tài sản được phép giao dịch (không thuộc
hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hóa kinh doanh có
điều kiện)
+ Mục đích và nội dung không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội
+ Chủ thể tham gia hoàn toàn tự nguyện.
- Công ước Viên 1980, về cơ bản, không điều chỉnh những nội dung này. Theo
Điều 4 của Công Ước Viên 1980 có quy định: trừ khi có quy định cụ thể, Công ước
không điều chỉnh tính hiệu lực của hợp đồng hoặc của bất cứ điều khoản nào của hợp
đồng hoặc của bất kỳ tập quán nào. Ở điểm này Công ước Viên 1980 để cho các
nước tham gia tùy nghi chọn lựa luật Quốc gia để quy định trong hợp đồng.
Như vậy, khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các bên có thể thỏa
thuận để áp dụng Công ước Viên 1980 làm luật áp dụng hợp đồng. Tuy nhiên để đảm
bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi áp dụng Công ước Viên các bên
vẫn phải tuân thủ các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực như Bộ Luật Dân Sự Việt
Nam 2005 quy định vì Việt Nam vẫn chưa gia nhập Công ước Viên 1980.
3. Giao kết hợp đồng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam đối với hợp đồng dân sự nói chung và
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng, việc giao kết hợp đồng được thực hiện
theo nguyên tắc “Đề Nghị – Chấp Nhận” (Offer – Acceptance).
Theo Khoản 1 và 2 Điều 404 BLDS 2005 hợp đồng được giao kết vào thời điểm
Bên đề nghị nhận được trả lời Chấp Nhận giao kết của Bên được đề nghị hoặc Bên
9
được đề nghị im lặng (nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết;
Điều này phù hợp với điều 15 của Công ước Viên 1980. Riêng về vấn đề im lặng,
Công ước quy định rõ tại Điều 18.1: im lặng hoặc không có hành động không được
hiểu là Chấp Nhận. Như vậy, cả Công ước Viên 1980 và luật Việt Nam đều thống
nhất rằng im lặng không có nghĩa là đồng ý.
Nhận xét: Nhìn chung cả công ước Viên và luật VN đều có những qui định khá
cụ thể và tương thích với nhau về giao kết hợp đồng, riêng công ước Viên có qui ước
cụ thể hơn về hành động im lặng hoặc không có hành động đều được xem là chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
4. Đề nghị giao kết hợp đồng
- Về định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng, luật Việt Nam (Điều 390 khoản 1) và
Công ước Viên (Điều 14 khoản 1) đều có chung quan điểm rằng đề nghị giao kết hợp
đồng được hình thành khi bên đề nghị thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và tự ràng
buộc mình trong trường hợp đề nghị đó được chấp nhận. Tuy nhiên, Công ước Viên
quy định chặc chẽ hơn luật Việt Nam về vấn đề này; Công ước Viên yêu cầu đề nghị
phải được gửi cho một hoặc nhiều người xác định và đó là một đề nghị đủ chính xác
khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng và giá cả một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp hoặc quy định cách xác định số lượng và giá cả.
- Về thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực: Theo Điều 391 khoản 1
BLDS 2005 và Điều 15 khoản 1 Công ước Viên 1980 thì cả luật Việt Nam và Công
ước đều quy định rằng đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi bên được đề nghị
nhận được đề nghị đó. Tuy nhiên, về vấn đề này thì luật Việt Nam có quy định rõ
ràng hơn về việc thế nào được xem là nhận được đề nghị. Điều 391 khoản 2 nêu rõ
các trường hợp được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:
+ Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được
chuyển đến trụ sở nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
+ Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị
10
+ Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua phương
thức khác.
- Về việc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng, Điều 393 BLDS 2005 và Điều 15
khoản 2 đều quy định bên đề nghị có thể hủy bỏ hay rút lại đề nghị chào hàng nếu
thông báo rút lại hoặc hủy bỏ đó đến trước hoặc cùng lúc với chào hàng. Ngoài ra,
luật Việt Nam còn cho phép hủy bỏ đề nghị nếu trong đề nghị có quy định quyền của
bên đề nghị có thể hủy bỏ.
5. Chấp Nhận giao kết hợp đồng
- Theo Điều 396 Bộ luật Dân sự 2005, một trả lời được xem là chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng khi người được đề nghị chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.
Quy định này cũng tương tự đối với Công ước Viên 1980 nhưng trong Công ước
Viên 1980 (Điều 19 khoản 2) có mở rộng rằng một trả lời vẫn được xem là chấp nhận
nếu trả lời đó có chứa đứng những điều khoản bổ sung hay những điều khoản khác
nhưng không làm biến đổi cơ bản nội dung của chào hàng. Như vậy có thể thấy Công
ước Viên 1980 quy định thoáng hơn luật Việt Nam về vấn đề này.
- Về thời hạn hiệu lực của chấp nhận giao kết hợp đồng, cả Công ước Viên và luật
của Việt Nam đều quy định thời hạn của chấp nhận giao kết hợp đồng do người gửi
đề nghị quy định. Tuy nhiên ở đây có sự khác biệt về thời gian nhận trả lời chấp nhận
giao kết chào hàng vì Việt Nam theo thuyết tiếp thu còn Công ước Viên theo thuyết
tống phát. Theo thuyết tiếp thu, thời điểm được xem là nhận được chấp nhận là khi
bên đề nghị nhận được trả lời của bên được đề nghị. Còn theo thuyết tống phát thì
thời điểm nhận được chấp nhận là khi bên được đề nghị gửi chấp nhận giao kết hợp
đồng. Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp cần phải chú
ý điểm khác biệt này để tránh xảy ra tranh chấp. Ngoài ra, Điều 20 khoản 2 của Công
ước Viên 1980 còn quy định nếu chấp nhận chào hàng không giao đến được người
chào hàng do ngày cuối cùng là ngày lễ hay ngày nghỉ thì thời hạn chấp nhận chào
hàng được kéo dài cho tới ngày làm việc đầu tiên sau đó. Luật Việt Nam không quy
định gì về điều này.
11
Về vấn đề rút lại chấp nhận chào hàng thì Công ước Viên 1980 (Điều 22) và luật
Việt Nam (Điều 400 BLDS 2005) đều quy định giống nhau rằng chấp nhận chào
hàng có thể bị rút lại nếu thông báo rút lại chào hàng tới nơi người chào hàng trước
hoặc cùng thời điểm chấp nhận có hiệu lực.
Thông qua so sánh, có thể thấy rằng ngoại trừ một số chi tiết cụ thể mà Công ước
Viên 1980 quy định chi tiết hơn luật Việt Nam, quy định về giao kết hợp đồng trong
luật Việt Nam đều tương thích với các quy định cơ bản của Công ước Viên 1980.
6. Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng
- Về phía Công ước Viên 1980
+ Khoản 1 Điều 2.1.4 và Khoản 1 Điều 16 của Công ước Viên 1980 quy định về
nguyên tắc, các đề nghị giao kết hợp đồng có thể bị hủy ngang. Tuy nhiên, các điều
khoản này cũng quy định việc hủy bỏ một đề nghị giao kết hợp đồng có thể được
thực hiện với điều kiện hủy bỏ này đến bên được đề nghị trước khi bên này gửi chấp
nhận đề nghị. Như vậy, chỉ khi bên được đề nghị chấp nhận đề nghị bằng miệng hoặc
khi bên được đề nghị chứng minh là đã chấp nhận bằng cách thực hiện một hành vi
mà không thông báo tới bên đề nghị thì bên đề nghị có quyền tiếp tục hủy bỏ đề nghị
cho tới khi hợp đồng được giao kết. Mặt khác, khi một đề nghị được chấp nhận bằng
văn bản, thì hợp đồng được giao kết khi chấp nhận đến bên đề nghị; trong trường hợp
này, bên đề nghị mất quyền hủy bỏ đề nghị ngay khi bên được đề nghị gửi chấp nhận
đề nghị.
+ Khoản 2 Điều 16 của Công ước Viên 1980 quy định hai ngoại lệ quan trọng
của nguyên tắc chung liên quan đến khả năng hủy ngang một đề nghị giao kết hợp
đồng:
+ Khi đề nghị quy định rõ là không thể bị hủy ngang: đề nghị giao kết hợp đồng
không thể bị hủy ngang mà có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, cách rõ
ràng và trực tiếp nhất là bên đưa ra đề nghị tuyên bố rõ điều này hoặc ấn định thời
hạn cho việc trả lời chấp nhận.
12
+ Bên đề nghị có cơ sở hợp lý để tin là đề nghị không hủy ngang: sự tin tưởng
của bên được đề nghị có thể xuất phát từ xử sự của bên đề nghị hoặc do tính chất của
đề nghị. Hành vi mà bên được đề nghị phải thực hiện trên cơ sở đề nghị có thể là tiến
hành việc sản xuất, mở L/C… với điều kiện là những hành vi này được coi như
thường gặp trong hoạt động mua bán hàng hóa hoặc được bên đề nghị biết trước hoặc
dự liệu trước.
- Về phía Bộ Luật Dân Sự 2005: Điều 393 BLDS 2005 quy định: “Trong trường
hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ
quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này
chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề
nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”. Quy định này ngược lại với những
quy định của Công ước Viên 1980.
- Ví dụ:
+ Công ước Viên 1980 quy định cụ thể về điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua
bán hàng hóa (gồm tên hàng, số lượng, giá cả), còn pháp luật về mua bán hàng hóa
của Việt Nam hiện nay không có quy định hợp đồng mua bán hàng hóa phải có
những điều khoản chủ yếu nào.
+ Điều 19.3 Công ước Viên 1980 quy định về nội dung của chấp nhận chào hàng,
qua đó có thể xác định được những sửa đổi bổ sung nào của chấp nhận chào hàng là
cơ bản khiến cho chấp nhận chào hàng đó trở thành một chào hàng mới. Bộ luật Dân
sự Việt Nam năm 2005 không có quy định cụ thể như Công ước Viên 1980.
+ Công ước Viên 1980 đưa ra quy định về việc kéo dài thời hạn hiệu lực của
chào hàng khi ngày cuối cùng của chào hàng lại rơi vào ngày nghỉ hay ngày lễ, trong
khi luật Việt Nam không quy định gì về vấn đề này.
Tóm lại, đối chiếu với các quy định liên quan của Công ước Viên 1980, có thể
nói, ngoại trừ một số chi tiết cụ thể, hầu hết các quy định của pháp luật Việt Nam liên
quan đến giao kết hợp đồng đều tương thích với những nguyên tắc cơ bản của Công
ước Viên 1980.
13
7. Hình thức của hợp đồng
7.1 Về hình thức của hợp đồng, quy định của Công ước Viên 1980
và luật của Việt Nam có sự khác biệt
- Theo Điều 27 khoản 2 Luật Thương Mại 2005 quy định rõ hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế phải được thực hiện bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá
trị pháp ly tương đương. Các hình thức có giá trị pháp lý tương đương ở đây bao gồm
điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp
luật (điều 3 khoản 15 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005).
- Công ước Viên 1980 không quy định bắt buộc về hình thức hợp đồng như luật
Việt Nam. Do thành viên của Công ước Viên 1980 gồm nhiều nước khác nhau từ các
nước kém phát triển cho đến các nước phát triển, mỗi nước có quan điểm khác nhau
về hình thức hợp đồng. Vì vậy, theo Điều 11 Công ước Viên: “Hợp đồng mua bán
không cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ bất cứ
một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng mình
bằng mọi cách, kể cả lời khai của nhân chứng.” Đây là điểm khác biệt cơ bản của luật
Việt Nam và CISG về hình thức hợp đồng. Tuy nhiên, đối với những quốc gia quy
định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện bằng văn bản như Việt
Nam có quyền bảo lưu sự khác biệt này theo Điều 96 của Công ước Viên khi tham
gia Công ước.
Với một nước đang trong quá trình phát triển như Việt Nam, pháp luật đang
trong quá trình xây dựng hoàn thiện và còn khá nhiều thiếu sót. Do vậy, việc quy
định hình thức bắt buộc của hợp đồng là văn bản sẽ giúp bảo vệ quyền lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam vì hình thức hợp đồng bằng văn bản mang đến sự bảo đảm
cao hơn:
+ Về tính an toàn: khi thỏa thuận bằng văn bản, các bên sẽ biết chính xác là họ đã
thỏa thuận những gì. Và nếu có xảy ra tranh chấp thì họ có thể kiểm tra lại những nội
dung quy định trong hợp đồng.
+ Về tính toàn diện: khi soạn thảo hợp đồng, ngoài những điều khoản chính, các
bên còn có thể thảo luận các điều khoản phụ mà họ đã quên không đề cập đến khi
thảo luận trực tiếp.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét