Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

Quyền chọn chứng khoán: điều kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam

đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Mỹ), khi C muốn thực hiện quyền được bán của
mình. Vào ngày thực hiện quyền (thường cũng là ngày kết thúc hợp đồng), sau khi
xem xét giá giao ngay của tài sản cơ sở trên thị trường, nếu thấy có lợi cho mình, tức
mức giá này nhỏ hơn giá thực hiện, C có thể thực hiện quyền của mình để được bán
lượng tài sản cơ sở đó với giá thực hiện sau khi đã mua được ở ngoài thị trường với
giá thấp hơn để thu một khoảng lợi nhuận. Nếu thấy giá giao ngay cao hơn giá thực
hiện, C có thể không cần phải thực hiện quyền chọn bán của mình, và chịu lỗ tiền phí
quyền chọn.
1.1.2.2 Theo thời gian thực hiện:
- Quyền chọn kiểu Mỹ (American style option) Là quyền chọn cho phép người
nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào bất kỳ thời điểm nào trong thời
gian hiệu lực của hợp đồng, kể từ khi ký kết hợp đồng cho đến hết ngày đáo hạn của
hợp đồng. Việc thanh toán sẽ thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi
việc thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận (trong thời gian hiệu lực
của hợp đồng).
- Quyền chọn kiểu châu Âu (European style option) là quyền chọn chỉ cho
phép người nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào ngày đáo hạn của
hợp đồng. Việc thanh toán thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi việc
thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận vào ngày đáo hạn.
Sự phân biệt giữa hai loại quyền chọn kiểu châu Âu và quyền chọn kiểu Mỹ
không liên quan đến vị trí địa lý. Ða số hợp đồng quyền chọn được trao đổi chính yếu
trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, quyền chọn kiểu châu Âu có đặc điểm dễ phân tích
hơn quyền chọn kiểu Mỹ và một số thuộc tính trong quyền chọn kiểu Mỹ thường
được suy ra từ quyền chọn kiểu châu Âu.
1.1.2.3 Theo thị trường giao dịch:
- Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường tập trung: Là quyền chọn
được tiêu chuẩn hóa về quy mô, số lượng, giá thực hiện và ngày đáo hạn, được giao
dịch trên các thị trường tập trung như Chicago Board of Trade, TTCK New York…
Do đó, tính minh bạch của thị trường rất cao, thể hiện ở chỗ giá cả, số lượng của hợp
5
đồng giao dịch được công bố chi tiết vào cuối ngày giao dịch, làm dữ liệu tham khảo
cho các ngày giao dịch tiếp theo hoặc cho nhiều mục đích khác. Đặc biệt, các hợp
đồng quyền chọn này có thể được dễ dàng chuyển nhượng giữa các NĐT, điều này
cho thấy tính thanh khoản cao của các hợp đồng quyền chọn được giao dịch trên các
thị trường tập trung kiểu này. Trên thế giới, thị trường giao dịch quyền chọn theo
kiểu này chiếm tỉ trọng rất lớn, khoảng 98% tổng giá trị giao dịch quyền chọn của thế
giới.
- Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường phi tập trung : Là thỏa thuận
mua bán giữa hai bên, theo đó quyền chọn được người bán đưa ra theo thỏa thuận với
người mua nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một người mua, chúng không được giao
dịch trên các sở giao dịch tập trung. Hợp đồng thường được giao dịch giữa các đối
tác liên ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng là các cá nhân, doanh
nghiệp(DN). Do các hợp đồng quyền chọn không được chuẩn hóa, chi tiết của hợp
đồng là thỏa thuận giữa các bên, nên tính linh hoạt đối với các hợp đồng này là rất
cao, đáp ứng được các nhu cầu cá biệt của các khách hàng. Dù vậy, các giao dịch
quyền chọn phi tập trung kiểu này chỉ chiếm khoảng 2% giá trị giao dịch quyền chọn
trên thế giới.
1.1.3 Các chủ thể tham gia thị trường quyền chọn
Các chủ thể tham gia thị trường giao dịch quyền chọn rất đa dạng, bao gồm
các DN, các cá nhân, các tổ chức hoạt động tài chính như ngân hàng thương mại
(NHTM), ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán (CTCK)…Dựa vào các mục đích
tham gia thị trường của mỗi đối tượng, ta có thể phân ra thành các nhóm sau:
Những người phòng ngừa rủi ro: Là những tổ chức tài chính và phi tài chính
hay những cá nhân, tham gia thị trường quyền chọn do có nhu cầu giao dịch các loại
tài sản cơ sở như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, lãi suất…và có những lo ngại về sự
biến động của giá cả hàng hóa, tỉ giá, lãi suất…làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
kinh doanh, lợi ích của họ. Thông thường, họ tham gia thị trường với tư cách là
những người mua các quyền chọn để bảo hiểm các rủi ro về sự biền động của giá cả,
6
tỉ giá, lãi suất…Họ sẵn sàng bỏ ra một khoản phí cho hợp đồng quyền chọn để đổi
lấy một mức tỉ giá, giá cả, lãi suất cố định.
Các NĐT, đầu cơ: Là các cá nhân, các tổ chức tài chính và phi tài chính, tham
gia vào thị trường với mục đích đầu cơ vào sự chênh lệch tỉ giá, giá cả, lãi suất … họ
thường dựa vào các công cụ phân tích kỹ thuật để đưa ra các dự đoán về xu hướng tỉ
giá, giá cả, lãi suất …Từ đó, thực hiện mua bán các quyền chọn thích hợp để thu lợi
nhuận.
Các tổ chức tài chính trung gian: Bao gồm các NHTM, ngân hàng đầu tư,
CTCK…Ngoài mục đích tham gia vào thị trường cũng với tư cách là các NĐT hoặc
những người có nhu cầu về bảo hiểm rủi ro. Ở các nước phát triển, nơi mà các giao
dịch quyền chọn hầu như chỉ diễn ra trên các sàn giao dịch tập trung, với tư cách là
các thành viên của sở giao dịch quyền chọn, họ đóng vai trò như một nhà môi giới
các giao dịch quyền chọn trên thị trường, chỉ một số ít các tổ chức tài chính lớn như
các tập đoàn tài chính khổng lồ mới có khả năng tự đứng ra phát hành quyền chọn
cho thị trường.
1.1.4 Cơ chế hoạt động của quyền chọn
Đối với quyền chọn cổ phiếu được giao dịch trên Sở giao dịch, các chi tiết của
hợp đồng – thời gian đáo hạn, giá thực hiện, ảnh hưởng của việc thanh toán cổ tức,
quy mô nắm giữ của NĐT – sẽ do Sở giao dịch quy đinh.
Về thời gian đáo hạn: mỗi Sở giao dịch tại mỗi quốc gia có thể có quy định
riêng. Tại Hoa Kỳ, một khoản mục được xác định trong quyền chọn cổ phiếu là tháng
mà có ngày đáo hạn. Ngày đáo hạn chính xác là vào thứ 7 kế tiếp sau ngày thứ sáu
tuần thứ ba của tháng. Ngày cuối cùng giao dịch quyền chọn là ngày thứ 6 tuần thứ 3
của tháng. NĐT có vị thế mua quyền chọn chỉ dẫn nhà môi giới thực thi quyền chọn
với thời hạn cuối cùng là 4h 30 ngày thứ sáu. Nhà môi giới sẽ có cả ngày hôm sau để
hoàn tất thủ tục thực thi quyền chọn.
Quyền chọn có thể được xem xét một trong ba trạng thái: đang có lời (in the
money), hoà vốn (at the money), và đang lỗ (out of the money). Nếu K là giá thực
hiện , S là giá của chứng khoán cơ sở. Một quyền chọn mua trong trạng thái đang có
7
lời khi S>K, trong trạng thái hoà vốn khi S=K, trong trạng thái đang lỗ khi S<K. Như
vậy, rõ ràng rằng một quyền chọn được thực hiện chỉ khi trong trạng thái đang có lãi.
Giá trị nội tại của quyền chọn (intrinsic value): được xác định là giá trị lớn
nào lớn hơn khi so sánh với 0 và giá trị của quyền chọn nếu nó được thực hiện ngay.
Chẳng hạn, với quyền chọn mua giá trị nội tại sẽ là max(S-K, 0). Đối với quyền chọn
bán, giá trị nội tại sẽ là max(K-S, 0).
Đối với quyền chọn giao dịch trên thị trường OTC, nếu một công ty công bố
chi trả cổ tức, giá thực hiện quyền chọn sẽ bị giảm trong ngày giao dịch không có cổ
tức đúng bằng giá trị cổ tức chi trả. Nếu quyền chọn giao dịch trên thị trường giao
dịch tập trung, việc thanh toán cổ tức thường chỉ bị điều chỉnh giá thực thi giá trị chi
trả cổ tức lớn.
Đối với việc chia tách cổ phiếu: sẽ có một số điều chỉnh trong giao dịch quyền
chọn. Khi cổ phiếu được chia tách n từ m sẽ làm giá cổ phiếu giảm xuống m/n giá trị
trước đó. Sau khi chia tách n từ m, giá thực hiện sẽ giảm xuống m/n giá trị trước đó
và số lượng cổ phiếu giao dịch trong một hợp đồng sẽ tăng n/m số lượng trước đó.
Nhằm hạn chế sự ảnh hưởng của một hoặc một nhóm NĐT tới thị trường, các
sở giao dịch quyền chọn thường có quy định giới hạn số lượng tối đa một NĐT có
thể nắm giữ và có thể thực thi quyền trong một đơn vị thời gian. Sở giao dịch quyền
chọn Chicago quy định mức giới hạn đối với một NĐT cho quyền chọn của cổ phiếu
lớn nhất có mức giao dịch nhiều nhất là 75.000 hợp đồng.
Một NĐT mua một quyền chọn có thể kết thúc vị thế của mình bằng một lệnh
bán một quyền chọn có nội dung tương tự. Một NĐT bán quyền chọn có thể kết thúc
vị thế của mình bằng việc mua một quyền chọn tương tự.
Trong giao dịch quyền chọn, NĐT mua quyền chọn có thể trả bằng tiền mặt
hoặc sử dụng tài khoản ký quỹ. Mức ký quỹ ban đầu thường là 50% giá trị của chứng
khoán và phải duy trì mức ký quỹ tối thiểu là 25% giá trị của chứng khoán. Thông
thường, quyền mua có thời gian đáo hạn dưới 9 tháng sẽ phải trả bằng tiền mặt mà
không được sử dụng tài khoản ký quỹ.
8
Đối với NĐT bán quyền chọn, yêu cầu phải duy trì một tài khoản ký quỹ để
đảm bảo thực hiện hợp đồng. Mức ký quỹ cụ thể có quy định trong từng trường hợp.
Trường hợp quyền chọn không có đảm bảo (naked options): mức ký quỹ
thông thường của quyền chọn mua (theo quy định của Sở giao dịch quyền chọn
Chicago) sẽ là một trong 2 giá trị sau tuỳ theo giá trị nào cao hơn.
+ Một trăm phần trăm giá trị phí mua quyền chọn đã nhận được cộng với 20%
giá trị thị trường của chứng khoán cơ sở trừ đi phần thua lỗ hiện có trong hợp đồng
(nếu có).
+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 10% giá trị thị trường của
chứng khoán cơ sở.
Mức ký quỹ thông thường của quyền chọn bán sẽ là giá trị nào lớn hơn trong
hai giá trị tính toán sau:
+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 20% giá trị thị trường của
chứng khoán cơ sở trừ đi phần thua lỗ (nếu có).
+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 10% giá trị thực hiện
quyền chọn.
Trường hợp quyền chọn có đảm bảo (covered options): đối với quyền chọn
mua đó là toàn bộ chứng khoán cơ sở của quyền chọn, biên bản thỏa thuận để bên thứ
ba nắm giữu chứng khoán cơ sở, hoặc chứng khoán có thể hoán đổi ra chứng khoán
cơ sở, hoặc một hợp đồng quyền chọn mua cùng loại chứng khoán cơ sở có thời gian
đáo hạn dài hơn, giá thực hiện thấp hơn, hoặc quyền mua cổ phiếu cơ sở có giá thực
hiện ngang bằng hoặc thấp hơn giá thực hiện quyền chọn.
Đối với quyền chọn bán, người bán quyền chọn phải đảm bảo: số tiền mặt
tương đương với giá trị thực thi hợp đồng hoặc thư đảm bảo của ngân hàng, hoặc số
bán khống chứng khoán cơ sở, hoặc đã mua quyền chọn bán khác cùng loại chứng
khoán có giá thực hiện cao hơn có cùng thời gian đáo hạn (hoặc thời gian đáo hạn dài
hơn).
Quyền chọn có thể sử dụng riêng biệt, độc lập hoặc có thể kết hợp theo nhiều
cách khác nhau để tạo ra các sách lược làm biến đổi tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận. Một
9
phương thức rất thông dụng là mua bán song hành cùng lúc các hợp đồng quyền chọn
của cùng một loại chứng khoán cơ sở. Có nhiều kiểu mua bán song hành nhưng có 2
loại thông dụng là mua bán song hành chiều dọc và mua bán song hành theo lịch.
Mua bán song hành theo chiều dọc là hình thức mua và bán đồng thời các quyền chọn
có cùng chứng khoán cơ sở, cùng thời gian đáo hạn nhưng khác giá thực hiện. Mua
bán song hành theo lịch là hình thức mua và bán đồng thời các quyền chọn có cùng
giá thực hiện nhưng khác thời gian đáo hạn.
1.1.5 Ưu nhược điểm của quyền chọn
1.1.5.1 Ưu điểm:
- Thứ nhất, có nhiều thời gian hơn để quyết định: Thông qua quyền chọn,
mức giá mua hoặc bán đã được xác định. Tuy nhiên, từ thời điểm hiện tại đến thời
điểm thực hiện NĐT vẫn còn khoảng thời gian đáng kể để cân nhắc kỹ lưỡng việc có
mua hoặc có bán chứng khoán đó hay không. Việc đầu tư một khoản tiền khiêm tốn
ban đầu để có thời gian cân nhắc kỹ lưỡng cho một khoản mục đầu tư lớn trong nhiều
trường hợp cũng đánh giá là đáng giá.
- Thứ hai, Cho phép NĐT thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư cao nhất.
Do NĐT chỉ bỏ ra chi phí nhỏ là giá quyền chọn và một số chi phí liên quan trong
quá trình giao dịch và thanh toán như chi phí môi giới, phí thanh toán tuy nhiên nếu
giá tài sản cơ sở (cổ phiếu, trái phiếu ) biến động đúng như kỳ vọng của NĐT, lúc
này khoản lợi nhuận là rất lớn.
- Thứ ba, Linh hoạt phòng ngừa rủi ro: đây là một trong những đặc điểm nổi
bật của quyền chọn so với công cụ khác như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Dùng quyền
chọn, NĐT có thể hạn chế mức tổn thất tối đa trong phạm vi giá phí quyền chọn. Đối
với quyền chọn bán còn có thể dùng để tự bảo hiểm cho trường hợp giảm giá chứng
khoán mà NĐT đang nắm giữ. Quyền chọn cho phép NĐT xây dựng một danh mục
chứng khoán đa dạng với chi phí ban đầu thấp hơn việc mua thẳng chứng khoán đó.
- Thứ tư, quyền chọn là công cụ để tìm kiếm lợi nhuận: Thông qua quyền
chọn NĐT có thể có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận gia tăng từ chi phí đầu tư khiêm tốn
10
ban đầu. Thông qua việc bán quyền chọn, một số nhầ đầu tư cũng sẽ được hưởng giá
phí quyền chọn từ một số NĐT khác.
- Thứ năm, tận dụng đòn bẩy tài chính: Thông qua công cụ quyền chọn NĐT
có thể tận dụng đòn bẩy tài chính để kiếm lợi nhuận. Giao dịch quyền chọn giúp
NĐT hưởng lợi từ sự biến động của giá chứng khoán mà không cần thanh toán toàn
bộ giá trị chứng khoán đó. Thông qua việc tận dụng phối hợp các quyền chọn khác
nhau, NĐT có thể thực hiện các chiến lược đầu tư phù hợp với mục tiêu và hoàn cảnh
cụ thể của mình.
1.1.5.2 Nhược điểm:
Bên cạnh các ưu điểm, quyền chọn cũng có những nhược điểm:
Giao dich quyền chọn phụ thuộc vào giá trị tài sản cơ sở, mức giá thực thi
quyền, thời gian, độ biến thiên của tài sản cơ sở Mặt trái cơ bản nhất của quyền
chọn là khi TTCK diễn biến không như kỳ vọng của NĐT, NĐT sẽ mất toàn bộ số
tiền bỏ ra để có được quyền chọn.
Quyền chọn là công cụ phái sinh khá phức tạp. Do đó, khi sử dụng giao dịch
quyền chọn, NĐT cần phải hiểu rõ và biết cách vận dụng các công cụ quyền chọn
một cách linh hoạt. Do đó, rủi ro lớn nhất của quyền chọn là khi chính NĐT không
hiểu rõ về quyền chọn và không biết cách kết hợp các vị thế để giới hạn tổn thất nếu
có và gia tăng lợi nhuận.
Mặt trái của giao dịch quyền chọn là hiện tượng đầu cơ. Các nhà đầu cơ có thể
đầu cơ giá lên hoặc giá xuống bằng các quyền chọn mua và quyền chọn bán. Việc
đầu cơ giá trên các hợp đồng quyền chọn có thể làm giá cả chứng khoán biến động
vượt ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các DN và các NĐT.
1.1.6 Sự phát triển của thị trường quyền chọn
Những giao dịch quyền chọn bán và quyền chọn mua đầu tiên được ghi nhận
là ở các quốc gia châu Âu và Mỹ đầu thế kỷ XVIII. Vào đầu những năm 1900, hiệp
hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn ra đời. Mục đích của hiệp hội này
là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và người bán lại với nhau. NĐT
muốn mua quyền chọn sẽ liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ tìm
11
nguời bán quyền chọn từ khách hàng của công ty hoặc của các công ty thành viên
khác. Nếu không có người bán, công ty đó sẽ tự phát hành quyền chọn với giá cả
thích hợp. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường phi tập trung OTC
(Over-The-Counter), các nhà kinh doanh không gặp nhau trên sàn giao dịch.
Tuy nhiên, thị trường quyền chọn phi tập trung này bộc lộ rõ nhiều khiếm
khuyết. Thứ nhất, do không có thị trường thứ cấp, thị trường này không cung cấp cho
người nắm giữ quyền chọn có hội bán quyền chọn cho một người khác trước khi
quyền chọn đáo hạn. Các quyền chọn được thiết kế để nắm giữ cho đến khi đáo hạn,
và rồi chúng sẽ được thực hiện hoặc để cho hết hiệu lực. Vì vậy, hợp đồng quyền
chọn có rất ít, thậm chí không có tính thanh khoản. Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng
của người bán chỉ được đảm bảo bởi công ty môi giới kiêm kinh doanh. Nếu người
bán hoặc công ty thành viên của Hiệp hội các nhà kinh doanh quyền chọn mua và
quyền chọn bán bị phá sản, người nắm giữ quyền chọn coi như tổn thất hoàn toàn.
Thứ ba, phí giao dịch tương đối cao, một phần cũng do hai nguyên nhân kể trên.
Năm 1973 đã có một sự thay đổi mang tính cách mạng trong thế giới quyền
chọn. Tháng 4 năm 1973, Ủy ban thương mại Chicago (Chicago Board of Trade –
CBO) thành lập Sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (Chicago Board
Options Exchange – CBOE), đặc biệt dành cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu.
CBOE đã tạo ra một thị trường trung tâm cho các hợp đồng quyền chọn. Bằng cách
tiêu chuẩn hóa các kỳ hạn và điều kiện của hợp đồng quyền chọn, nó đã làm tăng tính
thanh khoản cho thị trường. Nói cách khác, một NĐT đã mua hoặc bán quyền chọn
trước đó có thể quay trở lại thị trường trước khi hợp đồng đáo hạn và bán hoặc mua
quyền chọn, và như vậy đã bù trừ vị thế ban đầu. Tuy nhiên, quan trọng nhất CBOE
đã bổ sung một trung tâm thanh toán đảm bảo cho người mua rằng người bán sẽ thực
hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng. Vì vậy, không giống như trên thị trường phi tập trung,
người mua quyền chọn không còn phải lo lắng về rủi ro tín dụng của người bán. Ðiều
này khiến quyền chọn trở nên hấp dẫn đối với công chúng. Từ đó thị trường quyền
chọn trở nên phổ biến với NĐT. TTCK Philadelphia (Philadelphia Exchange –
PHLX) bắt đầu thực hiện giao dịch quyền chọn vào năm 1975, TTCK Pacific
12
(Pacific Stock Exchange – PSE) thực hiện vào năm 1976 và TTCK New York (New
York Stock Exchange – NYSE) thực hiện vào năm 1985.
Năm 1982, quyền chọn bắt đầu giao dịch trên các hợp đồng giao sau với trái
phiếu chính phủ, và loại giao dịch này phát triển rất nhanh. Giao dịch trên thị trường
đấu giá mở, việc mua bán quyền chọn cung cấp rất nhiều công cụ để đầu cơ và phòng
hộ giá cho cộng đồng thương mại. Sự thành công của hợp đồng quyền chọn đã mở
lối cho việc ra đời quyền chọn trên vô số các hàng hoá tiêu dùng, như ngô, đậu nành
và các sản phẩm khác.
Khi xã hội ngày càng phát triển, giao dịch quyền chọn ngày càng trở nên phổ
biến hơn, lan rộng sang Anh, Brazil, Ðức, Pháp, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông và
Australia. Việc toàn cầu hoá thị trường thế giới đã tạo ra nhu cầu liên kết điện tử và
thương mại 24/24 trong ngày. Thị trường Mỹ đã đáp ứng nhu cầu này bằng cách tạo
ra những sản phẩm giao dịch quốc tế, mở rộng giờ giao dịch và triển khai một sàn
giao dịch diện tử.
Những hệ thống đáng chú ý nhất là GLOBEX (được CME phát triển) và
Project A (được CBOT) phát triển. Ở Ðức, Deutsche Terminborse Exchange đã bỏ
kiểu giao dịch đấu giá mở, thay vào đó vận hành sàn giao dịch điện tử. Trên hệ thống
GLOBEX, các NĐT cá thể có thể giao dịch dựa trên chỉ số SP500, SP500 mini và
NASDAQ 100 và các hợp đồng con. Các NĐT cá thể cũng có thể mua bán ngoại hối
trên GLOBEX.
Trên hệ thống Project A (hiện tại là hệ thống Eurex (Tháng 8/2000, CBOT xây
dựng Eurex, tất cả các giao dịch trên Project A đều được thực hiện tại Eurex)), các
NĐT cá thể có thể mua bán trái phiếu T-bonds và tín phiếu, quyền chọn, và tất cả các
sản phẩm ngũ cốc trên CBOT. Giao dịch điện tử được thiết kế để hỗ trợ việc đấu giá
mở ngoài giờ giao dịch chính thức.
Hiện nay, chủ yếu các hợp đồng quyền chọn được mua bán rộng rãi tại văn
phòng TTCK (Chicago board option Exchange–CBOE, Philadelphia Exchange–
PHLX, The American Stock Exchange–AMEX, The Pacific Stock Exchange–PSE,
The New York Stock Exchange–NYSE ). Việc mua bán dưới hình thức hợp đồng
13
chọn tại các văn phòng TTCK có nhiều khía cạnh giống như mua bán hợp đồng
tương lai. Văn phòng TTCK phải xác định rõ các điều kiện, mức độ, thời gian đáo
hạn và ấn định giá của hợp đồng quyền chọn được mua bán trên thị trường của họ.Và
để giảm rủi ro của việc thực hiện hợp đồng, lúc mua sản phẩm (cổ phiếu chẳng hạn),
người đầu tư mở tài khoản dự trữ bắt buộc với người môi giới của họ, mức độ dự trữ
tuỳ thuộc vào loại hàng hoá được giao dịch và tuỳ vào từng tình huống cụ thể. Ðồng
thời, cũng có những quy định để kiểm soát thị trường hợp đồng quyền chọn, như
những qui định kiểm soát ứng xử của thương nhân, của những người tạo lập thị
trường.
1.1.7 Công cụ phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn
Một trong những đặc tính hấp dẫn của quyền chọn là nó có thể tạo ra nhiều
công cụ đa dạng để tìm kiếm lợi nhuận cũng như phòng ngừa rủi ro. Các khả năng có
thể đạt được lợi nhuận đa dạng đến nỗi gần như bất kỳ một NĐT nào cũng có thể tìm
được một công cụ đáp ứng rủi ro ưa thích của mình và phù hợp với dự báo của thị
trường. Quyền chọn làm cho việc chuyển từ dự báo sang một kế hoạch hành động
đem lại lợi nhuận nếu dự đoán đúng, dĩ nhiên nếu dự báo sai thì sẽ bị thua lỗ. Tuy
nhiên với việc sử dụng quyền chọn một cách đúng đắn mức thua lỗ này sẽ khá nhỏ và
có thể hạn chế được.
1.7.1.1 Giao dịch quyền chọn mua
Có hai loại giao dịch quyền chọn mua:
a. Mua quyền chọn mua
Mua quyền chọn mua là một công cụ kinh doanh tăng giá có mức lỗ có giới
hạn (phí quyền chọn) và có mức lợi nhuận tiềm năng không giới hạn. Điều này có
nghĩa, mua một quyền chọn mua cho chúng ta cơ hội kiếm lợi do tăng giá không giới
hạn và hạn chế lỗ do giảm giá. Do đó, mua một quyền chọn mua là một công cụ đặc
biệt hấp dẫn đối với những người có nguồn vốn có hạn.
14
Điểm hòa vốn
Vùng lãi
0
-C
π
X
St

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét