Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

163 Marketing cho sản phẩm trà LEROS

còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, hình thức này phù hợp với nguồn lực hạn
chế và kinh nghiệm xuất khẩu thấp của các doanh nghiệp.
Thực vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chỉ tập trung
hoạt động của họ chủ yếu trong môi trường sở tại, quen thuộc nên giảm
thiểu được những rủi ro tài chính và thương mại. Mặt khác, hình thức xuất
khẩu gián tiếp thông qua các trung gian xuất khẩu còn có những ưu điểm
khác.
Thứ nhất, giúp cho người sản xuất thâm nhập nhanh chóng vào thị
trường nước ngoài. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể sử dụng công ty
quản lý xuất khẩu - một hình thức tác nhân trung gian – có nhiều kinh
nghiệm hoạt động trên thị trường nước ngoài hơn và do đó, giảm bớt
được rủi ro gắn liền với việc bán hàng trong môi trường xa lạ.
Thứ hai, người sản xuất có thể nhận được sự hỗ trợ ngay về tài
chính khi các thoả thuận mua bán được thông qua.
Thứ ba, việc chuyên môn hoá hoạt động trong nước có thể làm tăng
hiệu quả của hoạt động đó và tạo ra những cơ hội đem lại lợi nhuận lớn
hơn. Ví dụ, nếu khách hàng nước ngoài đã quan tâm đến một loại sản
phẩm của công ty thì họ cũng có thể có nhu cầu mua loại sản phẩm khác
do công ty sản xuất. Hơn nữa, đa số người mua thích làm việc chỉ với một
số ít người cung cấp nhằm tiết kiệm chi phí giao dịch và các chi phí liên
qua đến quá trình mua.
Bên cạnh sự phân biệt giữa xuất khẩu gián tiếp và trực tiếp, cũng
cần thấy rõ sự khác biệt giữa xuất khẩu bị động và xuất khẩu chủ động.
Xuất khẩu bị động là doanh nghiệp thụ động trong việc lựa chọn các thị
trường xuất khẩu mà chỉ dừng ở việc thực hiện đầy đủ các đơn đặt hàng
đột xuất hoặc trông chờ sự khởi xướng từ phía những người mua hay
người đại diện nước ngoài. Hầu như các doanh nghiệp chỉ cố gắng sản
xuất theo đơn đặt hàng của các trung gian, các hợp đồng gia công chứ
chưa đủ năng lực để tìm kiếm thị trường mới. Ngược lại, xuất khẩu chủ
động là ký hợp đồng xuất khẩu với các hãng phân phối của nước ngoài.
5
Đó có thể là các nhà nhập khẩu của nước - thị trường cuối cùng hoặc là
các tập đoàn, trung tâm phân phối lớn của nước đó.
Thực tế cho thấy công tác marketing có thể là lực đẩy đằng sau các
chiến lược xuất khẩu đầy thành công. Theo thời gian, các chiến lược xuất
khẩu có thể được thau thế bởi chiến lược sản xuất nội địa hoặc nó vẫn
duy trì mối quan hệ chặt chẽ với chiến lược xuất khẩu từ “nguồn”.
Việc thâm nhập vào một thị trường ở một quốc gia nhất định qua
phương thức xuất khẩu hay việc tiến hành sản xuất sản phẩm tại quốc gia
đó không nên coi chúng có nghĩa như nhau. Quyết định tiến hành đầu tư
phải dựa trên các tính toán cụ thể về chi phí, tiếp cận thị trường, rủi ro về
chính trị và chất lượng sản phẩm. Nếu như công ty có thể cũng ứng một
sản phẩm chất lượng tốt cho thị trường ở một quốc gia khác, với giá rẻ và
một phương thức tiếp cận thị trường đáng tin cậy từ một nguồn xuất khẩu,
thì không có lý nào để tiến hành hoạt động đầu tư. Còn nếu như bất kỳ
một trong các điều kiện trên không được thoả mãn, thì lúc đó công tu mới
nên cân nhắc việc thực hiện đầu tư nhằm tạo ra một nguồn cung ứng sản
phẩm ngay tại quốc gia đó.
2.2. Bán giấy phép
Việc bán giấy phép là người sản xuất kí hợp đồng với bạn hàng nước
ngoài với nội dung trao cho họ quyền sử dụng một quy trình sản xuất, một
nhãn hiệu, một sáng chế hay bí quyết kinh doanh có giá trị thương mại.
Đây là một lựa chọn đối với chiến lược thâm nhập và mở rộng thị trường
với nhiều ý kiến rất khác nhau. Một công ty với công nghệ, bí quyết và có
trình độ chất sám cao có thể sử dụng các thoả ước cấp giấy phéo để làm
tăng thêm khả năng lợi nhuận của mình mà không phải tiến hành bất cứ
một hoạt động đầu tư nào với một chi phí rất hạn chế. Trên thực tế việc
cấp giấy phép thường đưa lại một khoản thu vô tận đối với việc đầu tư.
Các chi phí ở đây bao gồm chi phí ký kết thoả ước và kiểm soát việc thực
hiện của chúng.
Phương thức này không tạo ra cho công ty một sự giám sát chặt chẽ
cần có đối với các chức năng sản xuất và marketing cũng như chiến lược
6
ở các thị trường nước ngoài nhằm thực hiện lợi thế qui mô, lợi thế vị trí và
tác động kinh nghiệm. Bên cạnh đó thoả ước cấp phép chỉ có thể tồn tại
trong một thời gian ngắn nếu như người được cấp phép phát triển bí quyết
và năng lực của mình cho bắt kịp với trình độ công nghệ trong lĩnh vực
sản phẩm được cấp phép. Tuy nhiên ngoài điều đó, người được cấp phép
còn có thể gặp phải các rắc rối khi muốn có sức cạnh tranh hay trở thành
người đứng đầu ngành. Điều này đặc biệt đúng, bởi việc cấp giấy phép
chỉ cho phép các công ty “vay mượn” hay khai thác nguồn lực của các
công ty khác. Nó không cho phép thực hiện sự hỗ trợ cạnh tranh của một
thị trường này đối với một thị trường khác. Cuối cùng, việc bán giấy phép
có thể tạo ra cơ sở cho lợi thế cạnh tranh của người mua và do đó, công
ty sẽ có nguy cơ mất quyền kiểm soát đối với công nghệ ay bí quyết
nhượng bán.
Thực tế đã cho thấy rõ ràng rằng các khoản tiền thu được dễ dàng từ
việc cấp giấy phép của các công ty có thể trở thành nguồn thu khá lớn
trong tổng doanh thu. Nhằm tránh nguy cơ nâng cao tính cạnh tranh của
các địch thủ thông qua việc cấp giấy phép, cần phải đảm bảo rằng tất cả
các thoả ước cấp phép chỉ cho phép chuyển giao công nghệ chéo giữa
người cấp phép và người được cấp phép. Về mặt tích cực, điều này có
thể dẫn đến sự giàn xếp các giấy phép và do đó có thể đưa đến những cơ
hội đối với thị trường xuất khẩu và những mối quan hệ sản xuất rủi ro
thấp.
Đồng thời nó cũng có thể đẩy mạnh việc phổ biến của các sản phẩm
và công nghệ mới Đối với những công tu khi quyết định tiến hành nhượng
bán giấy phép, họ phải dự tính được khả năng mở rộng kinh doanh, và
bên cạnh đó cũng cần có sự lựa chọn các cách thức nhằm dẫn tới một thị
trường đã được mở rộng. Và một trong các con đường đó là việc tham gia
liên doanh đối với người được cấp phép.
2.3. Nhượng quyền kinh doanh
Đây là một chiến lược chủ yếu thường được các công ty dịch vụ sử
dụng phổ biến. Nhiều công ty kinh doanh hàng hoá hữu hình cũng sử
dụng phương thức này. Các nhãn hiệu thương mại có thể là một phần
7
quan trọng đối với việc hình thành và đảm bảo cho các cơ hội kinh doanh
của các giấy phép có khẳ năng sinh lời lớn.
Trong trường hợp bán quyền kinh doanh, công ty bán cho người mua
“những quyền hữu hạn” về sử dụng tên nhãn của mình với một khoản
thanh toán trọn gói và chia sẻ lợi nhuận với người mua quyền kinh doanh.
Tuy nhiên, khác với việc bán giấy phép, ở đây, người mua quyền kinh
doanh phải đồng ý tuân thủ những nguyên tắc, qui định nghiêm ngặt về
cách thức kinh doanh.
Các ưu điểm của việc bán quyền kinh doanh tương tự như bán giấy
phép. Đặc biệt, người bán quyền kinh doanh không phải chịu những chi
phí và rủi ro gắn liền với việc mở rộng thị trường nước ngoài. Chính người
mua phải chịu các khoản chi phí rủi ro đó. Như vậy, việc bán quyền kinh
doanh cho phép một công ty dịch vụ có thể thực hiện chiến lược toàn cầu
với chi phí thấp.
Nhược điểm của phương thức này cũng ít hơn so với bán giấy phép.
Người bán quyền kinh doanh thường là các công tu dịch vụ nên ít có nhu
cầu phối hợp hoạt động giữa các thị trường để đạt lợi thế quy mô và hiệu
ứng kinh nghiệm. Tuy nhiên, việc bán quyền kinh doanh có thể hạn chế
khả năng phối hợp chiến lược toàn cầu của công ty. Mặt khác, bán quyền
kinh doanh đòi hỏi phải quản lý và kiểm soát gắt gao chất lượng dịch vụ
cung ứng. Trên thực tế, những người mua quyền kinh doanh thường
không quan tâm đầy đủ đến chất lượng dịch vụ và do đó, làm giảm uy tín
toàn cầu của công ty. Để khắc phục nhược điểm này, công ty có thể thành
lập công ty con ở mỗi thị trường hay khu vực mà nó đang mở rộng hoạt
động.
2.4. Liên doanh
Việc tham gia liên doanh với một hoặc một số đối tác nội địa có thể
coi là một hình thức mở rộng hơn cả các hoạt động xuất khẩu và cấp phép
khi thâm nhập vào một thị trường nước ngoài. Ưu điểm của lựa chọn này
là việc chia sẻ rủi ro giữa các đối tác, cung như tăng cường khả năng kết
nối các công tác mang tính hiệu quả dây chuyền lại với nhau, ví dụ như
giữa việc nâng cao năng lực marketing quốc tế và hoạt động sản xuất. Tuy
nhiên khi lựa chọn phương thức này, một công ty cần có sự hiểu biết sâu
8
sắc về thị trường nội địa, hệ thống phân phối sản phẩm và có khả năng
tiếp cận với các nguồn nhân công và nhiên nguyên liệu giá rẻ. Còn đối với
các công ty trong nước nen tham gia liên doanh đối với các đối tác nước
ngoài để nắm giữ các bí quyết về công nghệ, sản xuất và ứng dụng. Hay
các công ty thiếu vốn cũng có thể liên doanh với nhau để cũng tài trợ cho
một dự án. Cuối cùng hình thức liên doanh có thể là phương thức duy
nhất để thâm nhập vào thị trường của một quốc gia, nếu như chính phủ
của đất nước đó đưa ra các luật lệ nhằm bảo vệ các công ty trong nước,
ngăn cấm sự kiểm soát của các công ty nước ngoài, song lại cho phép liên
doanh.
Một liên doanh có thể được sử dụng như một nguồn cung ứng sản
phẩm cho một nước thứ ba. Tuy nhiên, điều này cũng cần cân nhắc kỹ
lưỡng trước khi đưa ra các quyết định cuối cùng.
Một trong các lý do thường dẫn đến sự tan vỡ của các liên doanh, đó
là sự bất đồng về thị trường ở các nước thứ ba, nơi mà các đối tác phải
đối mặt với nhau như những đối thủ cạnh tranh thực sự hay tiềm ẩn. Để
tránh tình trạng này vấn đề cốt lõi là phải hoạch định được một kế hoạch
để xâm nhập dần vào thị trường của các nước thứ ba và điều này phải
được coi là một phần trong thoả thuận liên doanh.
Những bất lợi đối với việc tham gia liên doanh là khá lớn. Song bất
lợi chủ yếu đối với hình thức mở rộng thị trường này là chi phí quá cao
của việc quản lý và phối hợp hoạt động cùng đối tác. Và cũng như đã đề
cập ở phần trước, như trong trường hợp cấp giấy phép, một đối tác liên
doanh cũng có thể trở thành một đối thủ cạnh tranh rất mạnh. Bên cạnh đó
những sự khác biệt về văn hoá hay cách thức quản lý và thái độ ứng xử
của các bên cũng có thể là những thách thức khó vượt qua đối với cả hai
bên.
Tuy nhiên vấn đề lớn nhất là sự khác biệt trong tổng chi phí bỏ ra
không tương xứng với các khoản lợi nhuận thu được cũng như các rủi ro
phải gánh chịu, khi thành lập và đưa liên doanh đi vào sản xuất. Một lý do
khác là do giá cả lao động rẻ đã làm tăng cầu lao động, do vậy lại dẫn đến
sức ép nhằm nâng cao chi phí tiền lương và do đó ưu điểm ban đầu của
các liên doanh đã dần bị xói mòn.
9
2.5. Đầu tư trực tiếp
Một trong những hình thức được áp dụng rộng rãi khi tham gia vào thị
trường thế giới là việc tiến hành đầu tư 100% vốn của các công ty nước
ngoài. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc thành lập mới hay
thôn tính các công ty. Tuy nhiên hình thức này thường đòi hỏi những cam
kết chặt chẽ nhất về các nỗ lực đầu tư vốn cũng như quản lý, chính vì vậy
nó có thể đưa ra các điều kiện đầy đủ nhất khi tham gia vào một thị trường
mới. Các công ty có thể thay đổi sự lựa chọn các chiến lược của mình từ
việc cấp phép hay tham gia liên doanh, song chiến lược đầu tư trực tiếp
thường có tốc độ bành trướng thị trường nhanh hơn, kiểm soát và thu lợi
nhuận được nhiều hơn.
Một sự mở rộng thị trường trực tiếp trên quy mô lớn có thể tốn rất
nhiều chi phí, cung như đòi hỏi rất nhiều thời gian quản lý và công sức. Để
thay thế chiến lược này, việc thôn tính các công ty là một sự lựa chọn có
thể được thức hiện hết sức nhanh chóng và tốn ít chi phí hơn khi tiến
hành thâm nhập lại các ưu thế phụ như tránh các xung đột và các vấn đề
khác việc thôn tính các công ty lại có những đòi hỏi và thách thức riêng đối
với sự hội nhập của các công ty bị thôn tính, để từ đó hình thành nên một
hệ thống tổ chức có phạm vi toàn cầu cũng như đảm bảo sự phối hợp
hoạt động giữa chúng.
Quyết định đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức mở rộng hay thôn
tính đôi khi mâu thuẫn với các mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn. Song bất
chấp các thách thức đó, nhiều công ty hiện nay ngày càng có xu hướng
đầu tư ra nước ngoài.
Việc đầu tư 100% vốn cũng có một số ưu điểm giống như trong
trường hợp tham gia liên doanh, như tăng cường khả năng tiếp cận thị
trường, tránh các hàng rào quan thuế và hạn ngạch, chuyển giao các kinh
nghiệm và công nghệ sản xuất. Việc thành lập công ty con sở hữu hoàn
toàn sẽ làm giảm thiểu rủi ro gắn liền với việc mất khả năng tập kiểm soát
và giám sát công nghệ. Hơn nữa, nó tạo ra cho công ty một kiểu kiểm soát
chặt chẽ các hoạt động ở các thị trường khác nhau và do đó, nâng cao
khả năng phối hợp toàn cầu, thực hiện lợi thế qui mô, lợi thế vị trí và tác
động kinh nghiệm cũng như hỗ trợ cạnh tranh giữa các thị trường.
10
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp thường là phương thức tốn kém nhất để
phục vụ thị trường nước ngoài. Công ty mẹ phải chịu toàn bộ chi phí và rủi
ro của việc thành lập các nhà máy ở nước ngoài. Có 2 loại rủi ro: rủi ro
kinh tế vĩ mô và rủi to kinh tế vi mô. Loại thứ nhất ít gặp hơn nhưng nếu
có, nó liên quan đến tất cả các công ty. Đó là những vấn đề kinh tế và
chính trị ảnh hưởng đến một nước và là mối đe doạ đối với các khoản tiền
đầu tư đã bỏ ra. Chúng có nguồn gốc là những sự kiện chính trị hay quân
sự, hoặc một sự bất ổn định về tài chính và được thể hiện bởi sự trưng
dụng hay quốc hữu hoá, hoặc hạn chế tự do chuyển vốn, lao động…
Những rủi ro kinh tế vĩ mô là mối đe doạ to lớn đối với doanh lợi đầu tư và
thu nhập bằng tiền hơn là đối với việc thu hồi vốn bỏ ra. Đó có thể là
những quy định của chính phủ nước sở tại về thuế hay những điều chỉnh,
hạn chế tự do hoạt động của công ty.
Các hoạt động: xuất khẩu, cấp phép, tham gia liên doanh, hay đầu tư
trực tiếp, trên thực tế được coi như những kết cấu đồng nhất trong việc
lựa chọn các chiến lược nhằm thâm nhập và mở rộng các thị trường. Điều
này dẫn đến rất nhiều khả năng kết hợp của 4 sự lựa chọn này.
3. Chiến lược mở rộng thị trường và phát triển quốc tế
3.1. Các dạng chiến lược mở rộng thị trường theo các nước và
các đoạn thị trường
Đây là chiến lược mở rộng thị trường quốc tế của công ty dựa vào 2
“trục” phát triển là thị trường - nước và đoạn thị trường trong mối quan hệ
với số lượng sản phẩm. Chính từ đó, sự kết hợp giữa hai khả năng này đã
đưa ra 4 sự lựa chọn chiến lược cho các công ty.
Bốn chiến lược đó có thể được tập trung mô tả như sau:
• Chiến lược (1) tập trung vào một số ít sản phẩm trên một số ít thị
trường. Đây là tình trạng điển hình cho việc khởi đầu hoạt động xuất khẩu
của các công ty. Nó cho phép làm thích ứng các nguồn lực của công ty với
nhu cầu đầu tư của thị trường. Trừ khi là các công ty lớn có nguồn tài lực
mạnh mẽ, chiến lược này là phương tiện khả thi nhất để khởi đầu tham
gia vào thị trường quốc tế.
• Chiến lược (2) tập trung vào một số nước và đa dạng hoá các
đoạn, tức là tấn công vào nhiều đoạn thị trường của một số ít các nước.
11
Đó là trường hợp của nhiều công ty châu Âu vẫn hoạt động ở châu Âu và
tìm cách tăng trưởng thông qua việc phát triển trên các đoạn thị trường
mới. Đó cũng là tiếp cận của một số công ty Mỹ quyết định đa dạng hoá
ngay tại Mỹ hơn là trở thành công ty quốc tế với những sản phẩm hiện tại.
• Chiến lược (3), đa dạng hoá theo nước và tập trung trên một số
đoạn thị trường, là chiến lược toàn cầu cổ điển của các công ty tìm kiếm
sản phẩm cho toàn thế giới và hướng tới người tiêu dùng cuối cùng. Bằng
cách bán cho khách hàng toàn cầu, công ty có thể đạt được một khối
lượng bán cộng dồn nhiều hơn và mức chi phí thấp hơn so với các đối thủ
cạnh tranh. Chiến lược này cũng có thể cho phép công ty đáp ứng được
nhu cầu rất riêng biệt của một nhóm người tiêu dùng.
• Chiến lược (4), đa dạng hoá các nước các đoạn thị trường và các
sản phẩm, là chiến lược của các công ty đa quốc gia lớn. Các công ty này
có mặt trên toàn thế giới và tập hợp nhiều đơn vị độc lập. Tuy nhiên, cần
ghi nhận là về mặt nghiệp vụ, việc quản trị được tập trung theo nhu cầu
của người tiêu dùng thế giới trên một thị trường toàn cầu. Nó tương ứng
với chiến lược 3.
Theo cách tiếp cận trên, cần phải nhận thấy rằng ở mỗi cấp độ hoạt
động, các nhà quản lý nên tập trung vào nhu cầu của từng đối tượng
khách hàng trong mỗi thị trường cụ thể.
3.2. Mở rộng thị trường theo hướng phát triển vị thế thị trường
Số lượng ngày càng tăng các công ty trên thế giới khiến cho mỗi
công ty ngày càng nhận ra tầm quan trọng của thị phần không chỉ ở trong
nước mà còn ở trên thị trường thế giới. Nếu như trước đây hiệu quả hoạt
động của các công ty khá độc lập với nơi sản phẩm được bán ra, thì ngày
nay các thị trường trong và ngoài nước có tầm quan trọng như nhau trong
việc xác định sản lượng hàng bán và các chi phí bỏ ra.
Giá trị của học thuyết kinh nghiệm trong việc định giá trên thực tế là
rất sâu sắc. Theo đó, giá xuất khẩu càng thấp thì sự xâm nhập của công ty
vào thị trường ngoại quốc càng nhanh hơn và làm cho các đối thủ cạnh
tranh tiềm ẩn không còn chỗ đứng trên thị trường. Cùng lúc đó nếu một
nhà sản xuất chiếm ưu thế sẽ thu được lợi nhuận từ một thị phần lớn tại
12
thị trường trong nước bằng cách duy trì một tỷ suất lợi nhuận tại mức có
thể ổn định các thị phần ở các thị trường khác.
Chiến lược tạo vị thế thị trường được thực hiện qua việc làm thất
bại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn cả trong và ngoài nước, song có cơ sở
xuất phát từ thị trường trong nước. Điều này cho phép các công ty tài trợ
vốn cho các hoạt động phát triển của mình ở nước ngoài từ các nguồn thu
tại thị trường trong nước.
Nếu như một công ty nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong
nước của một hãng, thì hãng này nên hạ thấp giá sản phẩm của mình ở
trong nước. Tại nhiều nước, điều này lại gây ra một vài vấn đề khá rắc rối
cho các nhà sản xuất lớn, bởi chính sách giảm giá hàng hoá trong nước
sẽ trực tiếp gây ra tác động đối với các nhà xuất khẩu vừa và nhỏ và do
vậy sẽ vi phạm luật chống độc quyền của chính phủ đó, vấn đề trên đã
đưa lại một chính sách định giá cao cho các nhà sản xuất trong nước và
làm cho các chiến lược của các đối thủ cạnh tranh đối với các công ty Mỹ
mang tính khả thi hơn.
Song đối với các nhà sản xuất nhỏ, chuyên sản xuất một mặt hàng,
thì các chương trình mang tính chiến lược được đề xướng là nên tiến
hành đầu tư trong cả quá trình sản xuất cũng như phát triển và bảo dưỡng
sản phẩm. Để từ đó đi tới việc chiếm ưu thế đối với thị trường nước ngoài
bằng cách mở rộng và nắm giữ các phân đoạn thị trường mới, với chi phí
mang tính cạnh tranh cao từ các phân đoạn thị trường đã được thiết lập
ban đầu. Đối với những mặt hàng này, hoạt động xuất khẩu thường bị
phản đối một cách tuyệt đối với mục đích duy trì sức mạnh cạnh tranh.
Do đó, những hãng sản xuất loại này luôn cần một chiến lược và
một hệ thống marketing đối với thị trường nước ngoài. Những chiến lược
và hệ thống này phải hướng tới việc làm giảm chi phí của các hoạt động
marketing tại các thị trường đó, thông qua việc thiết lập các hệ thống cung
ứng liên kết và đồng thời nó cũng phải vạch ra các chương trình marketing
trong nước, nhằm thiết lập nên một chương trình marketing-mix tổng thể.
3. 3. Chiến lược mở rộng thị trường gắn liền với quá trình quốc
tế hóa của hãng
13
Qúa trình phát triển của một tập đoàn xuyên quốc gia bao gồm năm
giai đoạn: phát triển từ trong nước ra quốc tế, đa quốc gia, toàn cầu và
xuyên quốc gia. Mặc dù sự khác biệt trong mỗi thời kỳ là quá rõ nét, song
việc sử dụng các thuật ngữ để miêu tả mỗi thời kỳ phát triển vẫn chưa đi
đến sự thống nhất chung.
Bản thân sự khác biệt giữa một công ty trong nước và một công ty
quốc tế là: Các công ty quốc tế có phạm vi hoạt động trên rất nhiều nước.
Tuy nhiên, cũng giống như các công ty trong nước, các công ty quốc tế
vẫn có xu hướng hướng về thị trường ở trong nước, song nó vẫn tìm kiếm
các cơ hội thị trường và thực hiện các công việc kinh doanh ở nước ngoài.
Sự thay đổi đầu tiên trong xu hướng phát triển này cũng diễn ra khi một
công ty mở rộng phạm vi hoạt động của mình để trở thành một công ty đa
quốc gia, khi nó chuyển từ định hướng nội địa sang định hướng đa biên.
Sự khác biệt là khá rõ ràng.
Đối với các công ty đang ở trong giai đoạn một với định tâm nội địa
thường cố gắng mở rộng các sản phẩm và hoạt động của mình ra nước
ngoài. Sự khiếm khuyết của các công ty này là ở chỗ nó thường nhìn nhận
những điểm tương đồng giữa các quốc gia ngoài nước và trong nước dễ
dàng hơn là những điểm khác biệt. Đối với các công ty đa quốc gia thì lại
ngược lại, có thể nhận ra được sự khác biệt, song các điểm tương đồng
lại chỉ là tương đối. Điểm mấu chốt trong giai đoạn phát triển đa quốc gia
của một công ty là việc nó phải thích ứng với sự khác biệt ở các quốc giai
khác.
Các công ty toàn cầu có thể coi là một hình thức giới hạn của các
công ty xuyên quốc gia. Xu hướng phát triển của các công ty này là khá
phức tạp và mang tính tổng thể. Trong đó, công ty quản lý được tập trung
vào việc phát triển các thị trường toàn cầu hay việc khai thác các nguồn
lực toàn cầu, hoặc cả hai vấn đề đó.
Xu hướng phát triển vẫn tiếp diễn khi một công ty chuyển sang giai
đoạn xuyên quốc gia. Đối với các công ty trong giai đoạn này, công tác
quản lý không còn bị giới hạn theo một điểm khác biệt hay sự tương đồng,
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét