Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

Hoàn thiện công tác hạch toán lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu và xác định kết quả tiêu thụ tại Công ty XNK Mỹ nghệ Thăng Long - Bộ Thương mại

2.1 Các yếu tố nội tại của doanh nghiệp:
Các yếu tố này bao gồm các yếu tố về con ngời (chất lợng, kĩ năng, chi phí đào
tạo ), các yếu tố vật chất, các yếu tố về trình độ nh khoa học kĩ thuật, kinh nghiệm thị
trờng, các yếu tố về vốn. Tất cả các yếu tố này có thể chia thành hai loại là: các yếu tố
cơ bản nh môi trờng tự nhiên, địa lý, lao động không có kĩ năng và các yếu tố nâng cao
nh thông tin, lao động có trình độ cao. Trong hai yếu tố trên thì yếu tố thứ hai có ý nghĩa
quyết định tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chúng quyết định tới lợi thế cạnh
tranh ở mức độ cao và những công nghệ có tính độc quyền. Trong dài hạn thì đây là yếu
tố có tính quyết định, chúng phải đợc đầu t và phát triển lâu dài.
Đối với NHTM, yếu tố nội tại đầu tiên cần nhắc tới là yếu tố về vốn. Do đối tợng
kinh doanh của các NHTM là tiền tệ nên quy mô vốn và tình hình tài chính đóng vai trò
hết sức quan trọng trong quá trình kiến tạo sức mạnh cạnh tranh của các NHTM. Theo
quy định của pháp luật, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng, các ngân
hàng chỉ đợc huy động và vay vốn ở một mức độ nào đó so với tổng giá trị vốn tự có. Vì
vậy, quy mô vốn của một ngân hàng càng cao, khả năng tham gia vào thị trờng càng lớn.
Nói cách khác, quy mô vốn của ngân hàng xác định phạm vi cạnh tranh của ngân hàng
đó. Hơn nữa, các ý tởng hiện đại hoá ngân hàng luôn gắn liền với việc đầu t mua sắm
phần mềm mới, và trị giá các khoản đầu t này là không nhỏ đòi hỏi các ngân hàng phải
có tiềm lực tài chính đủ mạnh để chi trả.
Yếu tố con ngời cũng là một yếu tố quan trọng đối với bản thân NHTM. Do đặc thù
là ngành kinh doanh dịch vụ nên trong lĩnh vực ngân hàng, con ngời luôn đóng vai trò
trung tâm duy trì mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, quyết định hình ảnh của
ngân hàng trong con mắt khách hàng và là một trong những nhân tố kiến tạo sức cạnh
tranh của ngân hàng.Những đóng góp của yếu tố con ngời trong hoạt động ngân hàng đ-
ợc thể hiện ở các mặt sau:
Nhân viên ngân hàng là ngời trực tiếp thực hiện các chiến lợc kinh doanh bao gồm cả
chiến lợc cạnh tranh của các NHTM.
Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên ngân hàng chính là một
" hiện hữu" của dịch vụ. Vì vậy với kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, nhân viên
5
ngân hàng có thể làm tăng thêm giá trị cho dịch vụ cũng nh làm giảm đi, thậm chí
làm hỏng giá trị của dịch vụ.
Bằng việc gây thiện cảm với khách hàng trong quá trình giao dịch nhân viên ngân
hàng đã trực tiếp tham gia vào quá trình Marketing và xúc tiến bán dịch vụ.
Là lực lợng chủ yếu chuyển tải những thông tin tín hiệu từ thị trờng, từ khách hàng,
từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà hoạch định chính sách ngân hàng.
Tóm lại, chất lợng nhân viên ngân hàng càng cao, năng lực cạnh tranh của ngân hàng
càng lớn.
2.2 Nhu cầu của khách hàng:
Đây là yếu tố có tác động rất lớn tới sự phát triển của doanh nghiệp, nó quyết định
sự sống còn của doanh nghiệp. Thông qua nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp có thể
tận dụng đợc lợi thế theo quy mô, cải thiện các hoạt động kinh doanh và dịch vụ của
mình. Hơn nữa, nhu cầu của khách hàng còn có thể gợi mở cho doanh nghiệp phát triển
các loại hình và dịch vụ mới. Các loại hình này một khi đợc tiêu dùng rộng rãi trên thị
trờng thì doanh nghiệp sẽ giành đợc lợi thế cạnh tranh trớc tiên.
Trong lĩnh vực ngân hàng, nhu cầu của khách hàng là yếu tố quan trọng nhất trong
việc mở rộng các dịch vụ ngân hàng. Để thoả mãn những nhu cầu rất đa dạng của khách
hàng, ngân hàng cần phải biết nhạy bén nắm bắt những nhu cầu đó và phát triển phong
phú các dịch vụ của mình để đáp ứng chúng một cách tối u. Quá trình nghiên cứu thị tr-
ờng, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng cũng sẽ giúp cho NHTM kịp thời nắm bắt đợc
những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng để có sự điều chỉnh phù hợp. Do vậy công
tác Marketing nghiên cứu thị trờng, nghiên cứu khách hàng là một công việc quan trọng
và cần thiết, góp phần xây dựng năng lực cạnh tranh cho ngân hàng.
2.3.Các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ:
Sự phát triển của doanh nghiệp không thể tách rời sự phát triển của các lĩnh vực có liên
quan và phụ trợ nh thị trờng các sản phẩm thay thế hay bổ sung, thị trờng các yếu tố
đầu vào, các lĩnh vực tài chính, luật pháp, chính trị, xã hội, sự phát triển của công nghệ
thông tin, tin học
6
Trong hoạt động ngân hàng, các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ có thể kể đến là sự
phát triển của công nghệ thông tin và tin học. Hai ứng dụng chính của công nghệ thông
tin và tin học trong hoạt động liên ngân hàng đợc thể hiện thông qua hệ thống tính toán
đợc máy tính hoá CHIPS và SWIFT. Chính sự phát triển của hệ thống trên đã giúp giao
dịch của ngân hàng tăng lên cả về chất lẫn về lợng.
Ngày nay, các NHTM đều nhận thức đợc vai trò hết sức quan trọng của công nghệ đối
với kinh doanh ngân hàng. Công nghệ quyết định sự phát triển của sản phẩm, chất lợng
sản phẩm và phơng thức phân phối sản phẩm đến khách hàng. Đồng thời khả năng quản
lý ngân hàng, quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng phụ thuộc rất nhiều vào
công nghệ ngân hàng. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, công nghệ đợc
ngân hàng sử dụng nh một thứ vũ khí lợi hại tạo nên lợi thế cạnh tranh với hàng loạt các
giải pháp cải tiến công nghệ ngân hàng, các nhà ngân hàng có thể cung ứng cho khách
hàng những dịch vụ mang tính khác biệt cao, khó bắt chớc, nhất là khi công nghệ trở
thành bí quyết của ngân hàng. Do vậy, hoàn thiện và cải tiến công nghệ ngân hàng là
một trong những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM.
2.4.Chiến lợc của doanh nghiệp,cấu trúc tổ chức và đối thủ cạnh tranh:
ở đây đề cập tới cách thức mà các doanh nghiệp đợc hình thành, tổ chức quản lý cũng
nh mức độ cạnh tranh trong nớc. Sự phất triển các hoạt động doanh nghiệp sẽ thành công
nếu có đợc sự quản lý và tổ chức trong một môi trờng phù hợp và kích thích đợc các lợi
thế cạnh tranh của nó. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ là yếu tố thúc đẩy sự cải
tiến và thay đổi nhằm hạ chi phí, nâng cao chất lợng sản phẩm dịch vụ.
Đối với NHTM, lập chiến lợc và quản trị chiến lợc kinh doanh của mình là yếu tố góp
phần đem lại thành công cho ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên
gay gắt. Lập và quản trị chiến lợc sẽ giúp ban lãnh đạo ngân hàng xác định đợc những
mục tiêu cần đạt tới và cách thức để thực hiện mục tiêu đó. Điều này giúp ngân hàng
luôn ở thế chủ động, không bị rơi vào tình thế lúng túng, bất ngờ khi môi trờng kinh
doanh thay đổi, đồng thời tận dụng các nguồn lực của ngân hàng một cách có hiệu quả
nhất. Về cấu trúc tổ chức, đây là vấn đề quan tâm của các nhà quản trị ngân hàng vì chỉ
khi xây dựng đợc một cấu trúc tổ chức hợp lý,có khả năng vận hành nhịp nhàng,ngân
7
hàng mới có khả năng đáp ứng tối đa mọi nguồn lực,đồng thời đạt đợc mục tiêu chiến l-
ợc của mình. Ngời thiết kế cấu trúc giỏi phải là ngời nắm rõ điểm mạnh, yếu của từng
nguồn lực trong ngân hàng cũng nh nắm rõ mục tiêu cạnh tranh, từ đó thiết kế một cấu
trúc tổ chức phù hợp nhất.
Một cấu trúc tổ chức không hợp lý sẽ dẫn đến việc sử dụng lãng phí các nguồn lực do sự
phân công, phân nhiệm giữa các phòng ban chồng chéo, quá trình cung ứng dịch vụ
không thông suốt do chức năng giữa các bộ phận không rõ ràng, thời gian cung ứng dịch
vụ bị kéo dài do phải qua quá nhiều khâu trung gian không cần thiết, tính gắn kết của hệ
thống kém do thiếu sự phối hợp giữa từng bộ phận Tất cả các yếu tố kể trên sẽ tác
động xấu làm yếu đi năng lực cũng nh khả năng của NHTM.
Về đối thủ cạnh tranh, các NHTM phải đánh giá khách quan và đầy đủ về tiềm lực cũng
nh khả năng của đối thủ, đánh giá u, nhợc điểm của từng chiến lợc kinh doanh, trong
cấu trúc tổ chức hay trong mối quan hệ với khách hàng của đối thủ.Trên cơ sở đó, ngân
hàng có thể đa ra những đối sách quan trọng để chống lại sự thành công, sức ép từ phía
đối thủ cạnh tranh và giành lợi thế trên thị trờng.
Bốn yếu tố kể trên tơng tác qua lại với nhau hình thành nên sức mạnh cạnh tranh tổng
thể của doanh nghiệp,trong đó yếu tố 2.1 và 2.4 đợc coi là những yếu tố nội tại của
doanh nghiệp, hai yếu tố còn lại có tính hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của hai yếu tố
kia.Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, mỗi doanh nghiệp nói chung và
ngân hàng nói riêng cần có những chiến lợc phát triển phù hợp cho từng yếu tố cụ thể để
góp phần nâng cao sức mạnh tổng thể, giúp doanh nghiệp thắng thế trong cạnh tranh.
3.Một số yếu tố trong cạnh tranh của NHTM:
3.1.Mức độ chuyên môn hoá và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng:
Trong bất cứ nền kinh tế theo cơ chế nào, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp đều có mối quan hệ mật thiết với hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM. Để
có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của các doanh nghiệp cũng nh của các thành
phần khác trong nền kinh tế, các NHTM ngoài việc phát triển nghiệp vụ huy động và
cho vay, đầu t tín dụng và các nghiệp vụ đầu t khác cũng cần phải nghiên cứu, tạo lập và
mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng một cách đa dạng.
8
Dịch vụ ngân hàng có thể đợc hiểu là loại hình kinh doanh không dùng đến nguồn vốn
từ tài sản nợ mà chỉ dựa trên khả năng, trình độ chuyên môn, công nghệ và các phơng
tiện kỹ thuật của ngân hàng.
Trong nền kinh tế hội nhập, dịch vụ ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng
trong giao thơng nội địa và quốc tế, giúp gắn kết các đối tác với nhau một cách nhanh
nhất và bảo đảm an toàn. Đặc biệt, thông qua dịch vụ ngân hàng, vòng quay tiền tệ càng
nhanh sẽ kéo theo hệ số sinh lời càng lớn. Do vậy, có thể khẳng định nếu không có dịch
vụ ngân hàng thì nền kinh tế không thể vận hành thuận lợi và dịch vụ ngân hàng chậm
phát triển sẽ gây ách tắc lớn cho nền kinh tế.
Từ việc làm rõ vai trò, vị trí và tầm quan trọng của dịch vụ ngân hàng có thể thấy dịch
vụ ngân hàng là một yếu tố cạnh tranh mạnh mẽ giữa các NHTM. Đây làu thế và lợi thế
tự nhiên mà các ngân hàng cần quan tâm khai thác. Chuyên môn hoá và đa dạng hoá
dịch vụ ngân hàng sẽ làm thoả mãn tối u nhu cầu của khách hàng, từ đó nâng cao sức
cạnh tranh giữa các NHTM.
Theo tiêu chí của ngân hàng thế giới (World Bank) thì các NHTM sẽ không đợc đánh
giá cao khi sản phẩm của họ chủ yếu là tín dụng tức là ngân hàng hoạt động chủ yếu là
đi vay để cho vay. Một NHTM đợc coi là tiên tiến khi thu nhập từ các hoạt động dịch vụ
ngân hàng chiếm hơn 30% tổng lợi nhuận của ngân hàng đó.
Bảng 1-Tỉ lệ thu dịch vụ ngân hàng của một số ngân hàng trên Thế giới
STT Tên ngân hàng % / Tổng thu nhập
1 RZB Group 22,06
2 ANZ Bank( Australia ) 30,00
3 American Express 39,87
4 Kookmin Bank ( Korea ) 52,10
5 Bank of China 72,80
(Ngun: Báo cáo thờng niên- Năm 2001)
9
3.2.Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng:
Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng bao gồm các kỹ năng, cách thức của toàn bộ các
quá trình cung ứng dịch vụ trong ngân hàng. Các nhân tố cấu thành công nghệ cung ứng
dịch vụ gồm: con ngời, máy móc thiết bị, cấu trúc tổ chức, quy trình nghiệp vụ
Nh đã đề cập ở phần trên, dịch vụ ngân hàng là một trong những yếu tố cạnh tranh của
các NHTM. Tuy nhiên dịch vụ ngân hàng thuộc phạm trù kinh tế- khoa học- công nghệ-
kỹ thuật có hàm lợng chất xám cao, gắn kết con ngời với phơng tiện máy móc hiện đại.
Có thể nói dịch vụ ngân hàng là các phơng tiện, công cụ vô hình dùng để chuyển tải các
loại hình hoạt động kinh doanh ngân hàng bằng các phơng tiện công cụ hữu hình là máy
móc thiết bị và công nghệ. Dịch vụ ngân hàng càng phong phú, đa dạng về hình thức, đa
phơng đa chiều về không gian giao dịch và đối tác giao dịch thì yêu cầu về tính tiên tiến,
hiện đại của máy móc thiết bị, công nghệ càng cao. Những phơng tiện, công cụ hữu hình
này là nền tảng, là cơ sở hạ tầng, là cơ sở hạ tầng cho việc phát triển và mở rộng các loại
dịch vụ ngân hàng.
Nh vậy, muốn phát triển dịch vụ ngân hàng phải dựa trên hiện đại hoá công nghệ
ngân hàng. Một ngân hàng có khả năng đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, nhng không có
khả năng hện đại hoá công nghệ cung ứng các dịch vụ này thì sẽ không thể thành công.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt nh hiện nay, công nghệ ngân hàng sẽ là
một vũ khí sắc bén tạo nên lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng.
3.3.Hoạt động Marketing ngân hàng:
Các NHTM đều hiểu rằng, để có thể đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trờng
cũng nh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ nh hiện nay, cần
phải nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình. Có nhiều phơng cách khác nhau
để thực hiện điều đó, tuy nhiên phát triển hoạt động markeing ngân hàng là một trong
những công cụ hữu hiệu nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Để hiểu rõ hơn
vai trò của marketing ngân hàng, chúng ta có khái niệm sau: Marketing ngân hàng là
một hệ thống tổ chức quản lý của một ngân hàng để đạt đợc mục tiêu đặt ra là thoả mãn
tốt nhất nhu cầu về vốn cũng nh về các dịch vụ khác đối với nhóm khách hàng đợc lựa
chọn bằng các chính sách, các biện pháp hớng tới việc tối đa hoá lợi nhuận. Thông qua
10
khái niệm trên có thể thấy chức năng, vai trò của marketing ngân hàng thể hiện ở một số
mặt sau:
Marketing ngân hàng là công cụ hữu hiệu thu hút khách hàng. Khách hàng là lực lợng
nuôi sống toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vì vậy việc duy trì và phát
triển mối quan hệ với khách hàng là công việc quan trọng, quyết định sự thành bại trong
kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động marketing ngân hàng giúp thực hiện đợc điều đó
bởi mục tiêu của marketing ngân hàng là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Hoạt
động này nghiên cứu nhu cầu và thái độ của khách hàng, tìm cách đa đến cho họ những
dịch vụ phù hợp nhất một cách nhanh nhất với giá cả hợp lý nhất. Marketing ngân hàng
còn tạo nên sự thoải mái và thuận tiện trong quá trình giao dịch thông qua việc chỉ dẫn
cặn kẽ cho khách hàng tiện ích của những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp Trên cơ sở
thoả mãn một cách có hiệu quả những nhu cầu của khách hàng, hoạt động marketing
giúp ngân hàng duy trì các mối quan hệ truyền thống sẵn có với khách hàng.
Marketing là công cụ kết nối hoạt động của ngân hàng với thị trờng. Mỗi NHTM đều
có những hoạt động gắn kết với thị trờng nh: Nghiên cứu thị trờng để phát hiện những cơ
hội và thách thức trong kinh doanh, hoạt động nghiên cứu nội lực để nhận thức điểm
mạnh điểm yếu của doanh nghiệp, hoạt động điều chỉnh thiết kế dịch vụ phù hợp nhu
cầu của thị trờng, hoạt động quảng cáo giới thiệu sản phẩm dịch vụ ngân hàng trên thị tr-
ờng Bản chất hoạt động marketing của ngân hàng là quá trình xác định khả năng của
ngân hàng trên cơ sở xem xét mối quan hệ tơng quan giữa mục tiêu nhiệm vụ của ngân
hàng với kết quả phân tích thị trờng và nguồn lực hiện có, từ đó lựa chọn các chiến lợc
kinh doanh phù hợp với năng lực của ngân hàng và đáp ứng nhu cầu của thị trờng. Bởi
vậy vai trò của marketing ngân hàng là cầu nối giữa ngân hàng và thị trờng.
Marketing là công cụ cải thiện các nguồn lực, là cơ sở kiến tạo năng lực cạnh tranh
của ngân hàng. Các nguồn lực của ngân hàng bao gồm: năng lực điều hành của Ban
quản trị ngân hàng, quy mô vốn và tình hình tài chính, công nghệ cung ứng dịch vụ, chất
lợng nguồn nhân lực, công tác quản trị và kiểm soát với chức năng thoả mãn nhu cầu
của khách hàng và thích ứng với thị trờng, hoạt động marketing hỗ trợ và làm cho các
nguồn lực ngân hàng thực sự trở nên có giá trị, đợc thị trờng và khách hàng tiếp nhận.
11
Thông qua việc nghiên cứu vai trò của hoạt động marketing ngân hàng, có thể khẳng
định chắc chắn đây là công việc rất cần thiết trong hoạt động của ngân hàng, là yếu tố
nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Chính vì vậy, các ngân hàng cần chú ý
phát triển công tác marketing ngân hàng để đứng vững và đi lên trong cơ chế thị trờng và
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.4.Lãi suất và phí dịch vụ:
Đối với mỗi doanh nghiệp tham gia kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng, giá của
sản phẩm và dịch vụ cung ứng là một trong những công cụ cạnh tranh chủ yếu. Khi sản
phẩm của doanh nghiệp có u thế về giá so với đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ thuận
lợi hơn trong việc thu hút khách hàng, từ đó chiếm đợc thị phần lớn hơn.
Ngân hàng là loại hình dịch vụ đặc biệt tham gia kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ.
Sản phẩm chủ yếu của ngân hàng là dịch vụ huy động và cho vay vốn, trong đó lãi suất
đợc hiểu là giá của các sản phẩm này. Để thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng,
các ngân hàng cố gắng đa ra mức lãi suất hấp dẫn hơn các đối thủ cạnh tranh. Ngợc lại
để khuyến khích khách hàng vay vốn, ngân hàng sẽ tìm cách hạ thấp lãi suất cho vay.
Tuy nhiên khi quyết định mức lãi suất huy động và lãi suất cho vay đều gặp phải những
khó khăn cố hữu trong kinh doanh ngân hàng. Một mặt ngân hàng muốn đa mức lãi suất
huy động vốn đủ cao và lãi suất cho vay đủ thấp để thu hút khách hàng mới cũng nh duy
trì quan hệ với các khách hàng truyền thống; mặt khác ngân hàng phải giới hạn mức lãi
suất để đảm bảo cho ngân hàng có khả năng bù đắp chi phí và có đợc lợi nhuận. Do đó
ngân hàng không nên lạm dụng mức lãi suất để thu hút khách hàng và cạnh tranh với đối
thủ mà coi nhẹ mục tiêu bảo đảm và gia tăng khả năng sinh lợi của ngân hàng.
Hơn nữa, trong kinh doanh ngân hàng hiện đại, các ngân hàng không thể độc quyền
kiểm soát và định giá trong dài hạn, bởi vậy mức lãi suất mà ngân hàng đa ra phải trên
cơ sở mức lãi suất thị trờng và quy định của ngân hàng Nhà nớc. Tóm lại, việc sử dụng
lãi suất nh một yếu tố cạnh tranh đòi hỏi ngân hàng phải tính toán mức lãi suất cho phù
hợp, tuỳ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn, sử dụng vốn cũng nh mức lợi nhuận, tốc độ phát
triển mong đợi của bản thân ngân hàng và những quy định pháp lý của Nhà nớc.
12
Từ những phân tích ở trên ta có thể thấy việc cạnh tranh bằng giá của sản phẩm ngân
hàng- tức bằng lãi suất là khó thực hiện. Do vậy hiện nay các ngân hàng thờng có xu h-
ớng chuyển sang cạnh tranh bằng một công cụ gián tiếp hơn, đó là phí dịch vụ.
Phí dịch vụ đợc hiểu là chi phí mà khách hàng phải bỏ ra để đợc cung cấp một loại
hình dịch vụ nào đó, nói cách khác phí dịch vụ là giá của các dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp cho khách hàng. Đối với các ngân hàng, nguồn thu từ các dịch vụ là tơng đối
lớn, đứng thứ ba về thu nhập tài chính sau nghiệp vụ tín dụng và mua bán, thu đổi ngoại
tệ. Hiện nay do các tổ chức tín dụng khác nh: Quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính,
công ty cho thuê tài chính cha phát triển các loại hình dịch vụ và thu phí dịch vụ nên
việc mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng nh những quyết định liên quan đến phí dịch vụ d-
ờng nh chhỉ là việc nội bộ giữa các ngân hàng với nhau. Điều này giúp cho các ngân
hàng khi cạnh tranh thông qua phí dịch vụ loại bỏ đợc một số đối thủ cạnh tranh thuộc
giới phi ngân hàng, khiến phí dịch vụ trở thành thớc đo mức độ đa dạng hoá và chuyên
môn hoá của ngân hàng.
Cạnh tranh phí dịch vụ tức là đa ra mức biểu phí hấp dẫn để thu hút khách hàng và
loại bỏ đối thủ cạnh tranh, giành thị phần trên thị trờng. Thông thờng, ngân hàng Nhà n-
ớc đa ra quy định mức phí chung về một số dịch vụ chủ yếu nh thanh toán thẻ tín dụng,
chuyển tiền còn phần lớn các dịch vụ khác, các NHTM đ ợc chủ động đa ra mức phí
của mình. Nh vậy, không giống với lãi suất, các NHTM hầu nh không bị ràng buộc bởi
các quy định của ngân hàng Nhà nớc trong việc đa ra phí dịch vụ của mình, và phí dịch
vụ đợc đa ra chủ yếu dựa trên mức độ chuyên môn hoá và đa dạng hoá các dịch vụ ngân
hàng của từng ngân hàng. Khi một ngân hàng có mức độ chuyên môn hoá cao đối một
hoặc một số loại dịch vụ, ngân hàng sẽ có khả năng giảm chi phí dịch vụ này, từ đó có
thể đa ra biểu phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh mà vẫn thu đợc lợi nhuận cao. Khi ngân
hàng đa dạng hoá dịch vụ, cung cấp nhiều loại dịch vụ thoả mãn nhu cầu của khách
hàng, chắc chắn sức thu hút của ngân hàng về biểu phí, về tiện ích dịch vụ sẽ cao hơn.
Khả năng đa dạng hoá dịch vụ cũng giúp ngân hàng có thể định mức phí thấp cho các
dịch vụ mới nhằm mục đích giới thiệu, thu hút khách hàng đến với ngân hàng mà không
phải lo lắng về chi phí đã bỏ ra và lợi nhuận thu đợc, phí thu đợc từ các dịch vụ truyền
13
thống của ngân hàng sẽ trang trải chi phí này. Xét trên phơng diện tổng thể trong dài
hạn, cả lợi nhuận hữu hình và lợi nhuận vô hình (thị phần, mức độ hài lòng của khách
hàng, uy tín của ngân hàng ) của ngân hàng đều sẽ tăng. Hiện nay, để thích ứng với thị
trờng và thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp ngân hàng ngày càng
mở thêm nhiều hình thức dịch vụ mới. Do đó, phí dịch vụ sẽ trở thành một công cụ sắc
bén của các ngân hàng.
Trên đây chỉ là bốn trong rất nhiều yếu tố cạnh tranh của các NHTM. Với xu hớng
cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc sử dụng các yếu tố này vào quá trình cạnh tranh sẽ
rất phổ biến cả về bề rộng lẫn chiều sâu.Các ngân hàng ngoài việc phát triển toàn diện cả
bốn yếu tố trên cũng nên tùy thuộc vào tiềm lực, khả năng của ngân hàng mình mà chú
trọng phát triển những yếu tố đem lại hiệu quả cạnh tranh cao nhất.
Đến đây, em xin đợc kết thúc phần I của bài viết nghiên cứu những vấn đề chung về
cạnh tranh của NHTM. Phần II chúng ta sẽ đi vào xem xét và đánh giá năng lực cạnh
tranh của NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập trên cơ sở những lý luận đã nêu ở
phần I.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét