Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014
Thúc đẩy phát triển kinh doanh máy tính thương hiệu Việt Nam
- 5 -
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Tổng quát, đánh giá được tình hình cung - cầu của thị trường máy tính Việt
Nam, tình hình kinh doanh máy tính thương hiệu Việt, ….
- Phân tích những ảnh hưởng của hội nhập, phân tích SWOT của kinh doanh
máy tính thương hiệu Việt.
- Đề xuất được các định hướng và giải pháp cụ thể để phát triển kinh doanh
máy tính thương hiệu Việt.
6. Hạn chế của đề tài:
Luận văn chưa tiến hành điều tra được nhiều các doanh nghiệp làm máy tính
thương hiệu Việt để hiểu được những khó khăn, thuận lợi cụ thể của họ trong quá
trình kinh doanh; chưa điều tra đầy đủ các nhóm khách hàng là các doanh nghiệp,
các cơ quan chính phủ,… để có đánh giá tốt hơn về yêu cầu của người sử dụng đối
với mặt hàng máy tính, để có cơ sở làm cho đề tài hoàn thiện hơn.
7. Kết cấu nội dung:
Nội dung luận văn gồm có 3 phần chính với kết cấu theo 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về cạnh tranh, hội nhập quốc tế và thương hiệu
Chương 2. Đánh giá hiện trạng kinh doanh máy tính thương hiệu Việt Nam và ảnh
hưởng của hội nhập quốc tế
Chương 3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh doanh máy tính thương hiệu
Việt Nam
*****
- 6 -
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH,
HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ THƯƠNG HIỆU
1.1. Lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế:
1.1.1. Khái niệm và các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế là việc tham gia vào hệ thống thgương mại quốc tế,
thiết lập những luật lệ và nguyên tắc vượt phạm vi một quốc gia để cải thiện thương
mại kinh tế và sự hợp tác giữa các quốc gia.
Có năm mức độ hội nhập:
- Khu vực mậu dịch tự do: là một thỏa hiệp hội nhập kinh tế trong đó
những rào chắn về thương mại giữa các nước thành viên được tháo dỡ. Mỗi thành
viên tham gia sẽ kiếm lợi trong việc chuyên về sản xuất những hàng hóa và dịch vụ
mà họ có những thuận lợi tương đối và nhập những hàng hóa và dịch vụ mà họ
không có những ưu điểm.
- Liên minh thuế quan: là một hình thức hội nhập kinh tế mà trong đó tất cả
những thuế quan giữa những nước thành viên đều được bỏ đi, chính sách thương
mại chung đối với những nước không thành viên được thực hiện. Các nước bên
ngoài liên minh sẽ phải đương đầu với hàng rào thuế quan giống nhau đối với việc
xuất khẩu cho bất cứ thành viên nào trong nhóm.
- Thị trường chung: là một hình thức hội nhập mang các đặc tính:
• Không có hàng rào thương mại giữa các thành viên
• Một chính sách thương mại chung đối với những nước bên ngoài
• Tính chuyển động của những yếu tố sản xuất giữa các nước thành viên
Một thị trường chung cho phép xác định thực những tiềm lực của sản xuất
như vốn, lao động, kỹ thuật dựa trên cơ sở lý thuyết của những lợi thế tương đối.
- Liên minh kinh tế: là một hình thức sâu hơn của hội nhập kinh tế có đặc
tính là việc di chuyển hàng hóa, dịch vụ và những yếu tố sản xuất giữa các nước
thành viên và một sự hội nhập đầy đủ về chính sách kinh tế.
- Liên minh chính trị: thường có từ những sự hội nhập kinh tế đầy đủ, trong
đó tất cả các chính sách kinh tế đều giống hệt nhau và có một chính phủ đơn nhất.
- 7 -
Điều này cho phép một sự hội nhập toàn diện, xảy ra khi các nước thành viên từ bỏ
những quyền lực quốc gia thông qua việc lãnh đạo của một chính quyền duy nhất.
Một điển hình thành công là nước Mỹ, họ đã liên kết các bang độc lập thành một
liên hiệp chính trị.
Một số vấn đề cần được xem xét khi hội nhập:
Thứ nhất, một quốc gia sẽ chọn mức độ hội nhập kinh tế thích ứng trên cơ sở
những nhu cầu về kinh tế và chính trị, chứ không cần thiết phải trải quaWSQW tuần
tự các hình thức từ việc tham gia một khu vực thương mại tự do, đến liên minh thuế
quan, tiến dần lên thị trường chung hay một liên minh kinh tế.
Thứ hai, sự hội nhập kinh tế trong hình thức thương mại tự do đưa đến kết
quả đặc trưng là việc thành công cho tất cả các thành viên trong khối, khi mà mỗi
thành viên có thể chuyên môn hóa về những hàng hóa và dịch vụ mà họ làm ra hiệu
quả nhất và trông cậy vào các thành viên khác trong khối để cung cấp các hàng hóa
còn lại. Sự cạnh tranh gia tăng giữa các nước thành viên trong khối sẽ mang đến kết
quả sản xuất hiệu quả, giá cả thấp hơn và xuất khẩu qua các nước không thành viên
sẽ tăng lên.
Ba là, việc kinh doanh của những nước thành viên có thể đạt được những
thuận lợi về kinh tế nội bộ và những thuận lợi về kinh tế ở ngoài nước do có thể tiếp
cận với những nguồn tài nguyên trong các nước thành viên để nâng cao hiệu quả
kinh doanh của mình.
Thứ tư, về ngắn hạn, vài nước trong khối sẽ chịu tổn thất vì những nước
thành viên khác có khả năng đạt được hiệu quả cao hơn và sẽ thống trị nhiều ngành
công nghiệp và thị trường nào đó. Điều này dẫn đến một giai đoạn hiệu chỉnh khi
mà các nước nghèo trong khối tiến đến cải thiện kỹ thuật của họ, huấn luyện nguồn
lao động của họ, và định hướng lại nền kinh tế của họ hướng đến những thị trường
nơi mà họ có thể giành được và duy trì những ưu điểm của họ đối với các nước
thành viên trong khối.
1.1.2. Những hàng rào thương mại áp dụng trong hội nhập:
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu nhưng không vì thế mà các
quốc gia mở cửa hoàn toàn nền kinh tế của mình để đón nhận hàng hóa và dịch vụ
- 8 -
từ các quốc gia khác xâm nhập vào. Trong quá trình hội nhập, tùy vào đặc điểm của
từng nền kinh tế mà các nước áp dụng một số hàng rào thương mại để bảo vệ nền
kinh tế trong nước, khuyến khích sản xuất trong nước.
- Thuế: Những hàng hóa nhập khẩu sẽ bị đánh thuế nhập khẩu, thường dựa
trên giá trị hàng hóa. Thuế làm tăng nguồn thu cho chính phủ, hạn chế nhập khẩu và
làm hàng hóa trong nước hấp dẫn hơn.
- Giới hạn số lượng: Giới hạn số lượng hay còn gọi là hạn ngạch, để hạn chế
số lượng có thể nhập khẩu hay thị phần được cho phép. Nếu hạn ngạch bằng không
gọi là cấm vận.
- Cố định giá quốc tế: Trong một số trường hợp nhiều công ty quốc tế sẽ cố
định giá hoặc số lượng bán bằng nỗ lực kiểm soát giá, cho phép các nhà cạnh tranh
liên hiệp lại với mục đích thích ứng với sự cạnh tranh quốc tế.
- Những hàng rào phi thuế quan: Là những quy định, luật lệ, sự quan liêu
làm chậm trễ hoặc cản trở việc mua bán hàng hóa nước ngoài. Một số hình thức cụ
thể như tiến trình chậm chạp của việc cho phép nhập khẩu, xây dựng những tiêu
chuẩn chất lượng nhằm loại trừ nhà sản xuất nước ngoài, chính sách mua trong
nước,…. Những hàng rào này giới hạn nhập khẩu và bảo vệ hoạt động bán hàng nội
địa.
- Giới hạn tài chính: Một số cách phổ biến nhất là những kiểm soát ngoại
tệ, hạn chế sự dịch chuyển tiền tệ, sử dụng tỷ giá hối đoái theo cách có lợi cho quốc
gia,…
- Kiểm soát đầu tư nước ngoài: Là những giới hạn về đầu tư trực tiếp của
nước ngoài, sự chuyển đổi hoặc chuyển tiền, bao gồm các hình thức: quy định một
số ngành chỉ cho phép đầu tư trong nước, quy định những nhà đầu tư nước ngoài
chỉ được giữ một tỷ lệ nhất định trong vốn sở hữu, giới hạn sự chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài, cấm trả tiền bản quyền cho công ty mẹ nhằm ngăn chặn sự kiệt quệ về
vốn sau này.
Những hàng rào này có thể giới hạn nhiều hoạt động thương mại và đầu tư
quốc tế và chúng được áp dụng ngày càng tinh vi.
1.1.3. Cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam:
- 9 -
Việt Nam đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, từng bước ký kết các
hiệp định thương mại song phương, khu vực và đa phương. Đến nay, Việt Nam đã
là thành viên của Tổ chức khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và của Diễn
đàn kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), đã ký hiệp định song phương với
Mỹ, chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Các quan hệ thương mại với
Nhật Bản, EU, Nga, Trung Quốc,… tiếp tục được mở rộng.
Là một nước đang phát triển tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ
có thêm nhiều cơ hội để phát triển, cụ thể là:
- Tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định
thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Khi gia nhập WTO,
nước ta sẽ được hưởng những ưu đãi dành cho nước đang phát triển theo qui chế tối
huệ quốc trong quan hệ với tất cả các nước thành viên của tổ chức này, nhờ thế
hàng hóa của ta sẽ xuất khẩu vào các nước này sẽ dễ dàng hơn.
- Có cơ hội mở rộng thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài. Tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, kéo theo cơ hội
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để thúc đẩy các doanh nghiệp
trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
- Tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật cho
công cuộc xây dựng đất nước. Thông qua thị trường trong nước được mở rộng, các
kỹ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào, tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn
kỹ thuật – công nghệ phù hợp nhằm phát triển năng lực kỹ thuật, công nghệ quốc
gia. Trong cạnh tranh quốc tế, công nghệ này có thể là cũ đối với các nước phát
triển nhưng lại là mới và hiệu quả đối với một nước đang phát triển như Việt Nam.
- Tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực của nước ta với các nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để nguồn nhân lực nước ta khai thông với các
nước. Chúng ta có thể xuất khẩu lao động, đồng thời nhập khẩu lao động kỹ thuật
cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có.
Bên cạnh những cơ hội trên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt nước ta trước
những khó khăn và thách thức nhất định.
- 10 -
- Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ hàng nước ngoài. Hội nhập kinh
tế quốc tế cho phép mở rộng thị trường nhưng khả năng mở rộng thị trường hàng
hóa của nước ta ra khu vực và thế giới còn hạn chế và phải đối đầu, cạnh tranh gay
gắt với các nước có trình độ phát triển cao hơn, đặc biệt là các nước ASEAN và
Trung Quốc. Những sản phẩm hàng hóa của ta phần lớn đồng dạng với các quốc gia
này. Phải thừa nhận rằng, trong hội nhập hàng hóa của Việt Nam rất khó mở rộng
chiếm lĩnh được thị trường mà ngược lại chúng ta trở thành thị trường tiêu thụ hàng
hóa của các nước.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, chúng ta chấp nhận tư cách thành
viên cạnh tranh ngang bằng với các nước khác trong khi khả năng cạnh tranh của
nước ta còn hạn chế. Theo đánh giá mới nhất của Diễn đàn kinh tế thế giới, năng
lực cạnh tranh của Việt Nam đã tụt xuống 17 hạng: từ vị trí 60/102 năm 2003 tụt
xuống hàng 77/104 năm 2004. Sự tụt hàng này diễn ra trong cả ba lĩnh vực chính
dùng làm tiêu chí xếp hạng là chất lượng môi trường kinh tế vĩ mô, tình trạng của
các định chế quốc gia và sự sẵn sàng tiếp cận công nghệ cao.
- Thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng giảm. Hội nhập kinh tế quốc tế mở
ra nhiều cơ hội cho thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cạnh tranh thu hút đầu tư
nước ngoài đang diễn ra quyết liệt giữa các nước trong khu vực và thế giới. Thu hút
đầu tư nước ngoài của Việt Nam không cao và xu hướng giảm vì các nước trong
khu vực Đông Nam Á có một số mặt lợi thế hơn ta. Khi hàng rào thuế quan của các
nước ASEAN bị bãi bỏ, các công ty đa quốc gia sẽ tập trung sản xuất tại những
nước có phí tổn thấp trong khu vực AFTA. Thách thức của Việt Nam là làm sao giữ
được các cơ sở hiện có của các công ty đa quốc gia và tạo cơ hội để các công ty đa
quốc gia đầu tư vào nước ta.
- Việt Nam trở thành bãi thải công nghệ. Thực tiễn trong khu vực thu hút
đầu tư FDI của nhiều nước trên thế giới cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài chỉ
chuyển sang các nước nhận đầu tư các máy móc thiết bị và công nghệ thứ hai và thứ
ba. Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển, đang lo ngại bị biến thành bãi
thải công nghệ cho các nước phát triển, đặc biệt là những thiết bị đã qua sử dụng.
- 11 -
Một nghiên cứu mới đây về chất lượng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam
cho thấy, trên 727 thiết bị và 3 dây chuyền sản xuất nhập khẩu trong 42 xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thì có 76% thiết bị được sản xuất từ những năm 1950 – 1960,
50% là các máy móc đã qua sử dụng. Những con số này thể hiện chất lượng thấp
của công nghệ nhập khẩu. Mặt bằng chung về trình độ công nghệ và trang thiết bị
của Việt Nam lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ
trang thiết bị kỹ thuật cũ, công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm 60-70%.
- Chảy máu chất xám. Cán bộ khoa học kỹ thuật chạy từ cơ quan nhà nước
sang các công ty nước ngoài, các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi là nguồn tuyển dụng
của các công ty nước ngoài, trí thức Việt kiều không về nước làm việc, học sinh đi
học nước ngoài không về nước mà ở lại làm việc nước sở tại. Hiện tượng chảy máu
chất xám là rõ ràng do cơ chế chính sách còn nhiều bất cập về lương, điều kiện làm
việc, cơ chế hành chính trói buộc, đòi hỏi khoa học đáp ứng ngay yêu cầu của thực
tiễn,… Trong khi các công ty nước ngoài tại Việt Nam đã đa dạng hóa phương thức
thu hút nhân tài.
- Cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các công ty đa quốc gia phát triển mạnh định
ra chiến lược phát triển kinh tế toàn cầu, hình thành hệ thống phân công lao động
kiểu mới theo chiều hướng là các nước công nghiệp phát triển sẽ chiếm giữ quyền
độc tôn sản xuất và làm chủ các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao, các nước đang
phát triển sản xuất các mặt hàng sử dụng nhiều lao động, giá trị thấp, tốn nhiều
nhiên liệu, khai thác tài nguyên.
Ngành (%) 1990 1995 2000 2004
Nông, lâm nhiệp – thủy sản 38.7 27.2 24.5 21.8
Công nghiệp – xây dựng 22.7 28.7 36.7 40.1
Dịch vụ 18.6 40.3 38.7 32.2
Bảng 1. Cơ cấu ngành qua các năm (1990 – 2004)
Nguồn: Kinh tế 2004 -2005, Việt Nam & Thế Giới (Thời báo kinh tế Việt Nam)
Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục, các ngành dịch vụ có tính chất
động lực như giáo dục, khoa học công nghệ, tài chính tín dụng có tỷ trọng thấp.
- 12 -
Ngành công nghiệp của ta chủ yếu là gia công, thiếu sự phát triển các ngành công
nghiêp hỗ trợ và liên quan, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế này làm cho nền kinh tế nước ta tăng trưởng
không hiệu quả, kém bền vững, chất lượng tăng trưởng thấp, khoảng cách giữa
nước ta và các nước ngày càng rộng ra. Bài học quan trọng là phải xây dựng được
một cơ cấu kinh tế hợp lý, một cơ cấu kinh tế phải tự sản xuất các tư liệu sản xuất
cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế.
- Chấp nhận những chấn động có thể xảy ra trong hệ thống kinh tế toàn
cầu. Khi đấy, nếu năng lực quản lý kinh tế vĩ mô kém, hệ thống tài chính – ngân
hàng không hiệu quả, tệ tham nhũng và quan liêu hoành hành, không phòng vệ tích
cực thì nền kinh tế khó tránh khỏi sự đổ vỡ, khủng hoảng. Đây là một thách thức
lớn đối với ta.
Ngoài ra, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn có thể gặp phải các thách
thức khác do tác động tiêu cực của thị trường từ nước ngoài dội vào, sự xung đột
giữa các nền văn hóa,…
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của thời đại. Nhưng không vì
thế mà chúng ta thúc ép mở cửa thị trường một cách vội vã, bởi hệ quả sẽ là sự phá
hoại quá trình công nghiệp hóa củac các nước đang phát triển do các ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu bị sụp đổ trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa
của các nước phát triển. Chúng ta cần có sự chuẩn bị đầy đủ, tiến trình hội nhập
thích hợp để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tránh những tác động tiêu cực
nêu trên, tạo ra những cơ hội thuận lợi cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao và
bền vững.
1.2. Lý thuyết về Lợi thế cạnh tranh quốc gia của MICHAEL PORTER:
Lý luận lợi thế cạnh tranh quốc gia của Porter ra đời năm 1990. Khi thiết lập
cơ sở cho lý luận này, Porter muốn mô tả tính đa dạng phong phú và sự phức tạp
của toàn bộ thế giới cạnh tranh hiện thực. Ông đã đi sâu nghiên cứu cơ sở kinh tế vi
mô - hoạt động của ngành, của các doanh nghiệp - do đó lý luận lợi thế cạnh tranh
quốc gia của ông có tính thực tế và được ứng dụng ở nhiều quốc gia.
- 13 -
1.2.1. Mô hình “kim cương”:
Mô hình “kim cương” của Porter đặt trên cơ sở bốn yếu tố xác định và hai
yếu tố biến thiên bên ngoài. Những yếu tố xác định bao gồm: điều kiện thâm dụng,
điều kiện nhu cầu, các ngành công nghiệp liên kết và hỗ trợ, và môi trường mà công
ty cạnh tranh.
1.2.1.1. Nhóm yếu tố thâm dụng: bao gồm,
- Số lượng, kỹ năng và những chi phí về nhân lực
- Sự phong phú, chất lượng và chi phí của những nguồn vật chất của quốc gia
như đất đai, nước, chất quặng mỏ, nguồn năng lượng thủy điện,….
- Vốn kiến thức của quốc gia bao gồm nền khoa học kỹ thuật, những am hiểu
thị trường ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng hàng hóa và dịch vụ
- Số lượng và chi phí về vốn có sẵn đối với ngành công nghiệp tài chính
- Chủng loại, chất lượng và chi phí sử dụng các cơ sở hạ tầng, bao gồm hệ
thống giao thông vận chuyển quốc gia, hệ thống truyền thông, hệ thống chăm sóc
sức khỏe, và những yếu tố khác tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống trong
nước.
Việc đạt được lợi thế cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng sử dụng một hoặc
vài yếu tố thâm dụng. Để cải tiến sản phẩm, công ty phải thường tiếp cận những
người có những kỹ năng cần thiết, những nhà cạnh tranh trong nước là những người
tạo áp lực cạnh tranh, tiếp cận khách hàng là những người muốn sản phẩm tốt hơn
hay rẻ hơn, và cả những nhà cung cấp là người gợi ý và cung cấp nguyên vật liệu
với giá thấp. Điều cần thiết cho một công ty gắn bó với ngành và để ra quyết định là
tìm ra phương cách giải quyết vấn đề thông qua những nổ lực đổi mới hơn là tìm
cách dễ nhất liên quan với những bất lợi.
1.2.1.2. Những điều kiện về nhu cầu: bao gồm,
- Sự cấu thành của các nhu cầu tại thị trường địa phương mà nó phản ánh bởi
các khía cạnh thị trường, tính chất tinh vi và nhu cầu của người mua tại thị trường
địa phương tốt như thế nào đối với những người mua khác tại thị trường nước khác
- Kích cỡ và mức phát triển về nhu cầu tại một nước
- 14 -
- Những cách làm cho nhu cầu nội địa được quốc tế hóa và đưa những sản
phẩm và dịch vụ ra nước ngoài
Porter cho rằng lợi thế cạnh tranh của một quốc gia sẽ mạnh hơn nếu có sự
gia tăng nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ. Việc hiểu nhu cầu người tiêu dùng cung
cấp cho người bán nhiều lợi ích. Nhu cầu giúp người bán hiểu những gì người mua
cần. Hơn nữa, khi những thay đổi trở nên cần thiết như nhu cầu của khách hàng
muốn sản phẩm nhỏ hơn hay tiết kiệm nhiên liệu hơn, những người bán địa phương
sẽ biết được và có thể cải tiến hoặc điều chỉnh cho phù hợp với thị trường trước khi
những nhà cạnh tranh ở xa có thể phản ứng.
1.2.1.3. Các ngành công nghiệp liên kết và hỗ trợ: bao gồm,
- Sự hiện diện của các ngành công nghiệp cạnh tranh quốc tế tạo nên sự ưu
việt trong các ngành công nghiệp hiệu quả hơn, tiến nhanh đến chi phí sản xuất hiệu
quả
- Những ngành công nghiệp liên quan mang tính cạnh tranh quốc tế có thể
phối hợp và chia sẻ các hoạt động trong chuỗi mắc xích khi nó cạnh tranh
Đây là những ngành công nghiệp dịch vụ chủ yếu. Khi nhà cung cấp ở gần
nhà sản xuất, những công ty này thường cung cấp nguyên vật liệu với chi phí thấp
mà những nhà cạnh tranh ở xa không có được. Hơn nữa, nhà cung cấp biết những gì
xảy ra trong môi trường công nghiệp để dự đoán và phản ứng với những thay đổi.
Bằng việc chia sẻ những thông tin này với nhà sản xuất, họ giúp nhà sản xuất duy
trì vị trí cạnh tranh.
1.2.1.4. Tổ chức, chiến lược công ty và sự cạnh tranh: bao gồm,
- Những cách để điều hành xí nghiệp và được chọn để cạnh tranh
- Những mục tiêu mà các công ty cũng như những nhân viên và các nhà quản
lý tìm kiếm để đạt được
- Những kình địch cạnh tranh nội địa và những sáng tạo và sự bền bỉ về
những ưu thế cạnh tranh trong từng ngành công nghiệp
Đây là hoàn cảnh mà công ty sáng tạo, tổ chức và quản trị cũng như bản chất
của sự cạnh tranh nội bộ. Không có một hệ thống quản lý nào là thích hợp cho tất
cả. Các quốc gia có khuynh hướng điều hành tốt các ngành công nghiệp là những
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét