Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Làm thế nào để vận dụng và thiết kế trao đổi học tập Tiếng Việt 5 một cách hiệu quả

2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
một kó năng sử dụng kiến thức tiếng Việt đã học vào một tình huống cụ
thể. Mỗi bài tập thường chỉ đề cập đến một khía cạnh của nội dung bài
học từ mức độ thấp đến mức độ cao nhằm rèn luyện các thao tác tư duy
cho học sinh.
Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu bài ‘’ Luyện tập thay thế từ ngữ để liên
kết câu’’Sách Tiếng Việt 5, tập 2, trang 86.
Bài 1 : Trong đoạn văn sau, người viết đã dùng những từ ngữ nào để
chỉ nhân vật Phù Đổng Thiên Vương ( Thánh Gióng ) ? Việc dùng nhiều
từ ngữ thay thế cho nhau như vậy có tác dụng gì ?
Bước đầu bài tập chỉ yêu cầu học sinh nhận biết những từ ngữ chỉ
nhân vật Phù Đổng Thiên Vương có trong đoạn văn ( mức độ biết ).
Sau đó phải nêu được tác dụng của việc thay thế từ ngữ ( mức độ hiểu ).
Như vậy thông qua bài tập 1, học sinh được rèn những kó năng tư
duy ở mức độ thấp đó là : biết- hiểu.
Bài 2 : Hãy thay thế những từ ngữ lặp lại trong hai đoạn văn sau
bằng đại từ hoặc từ ngữ đồng nghóa.
Sang bài tập 2, học sinh phải xác đònh được từ ngữ được lặp lại trong
hai đoạn văn và dùng từ ngữ khác để thay thế. Như vậy mức độ yêu cầu
của bài tập cao hơn, học sinh phải biết cách vận dụng từ ngữ để thay
thế ( mức độ vận dụng ) và thay thế cho phù hợp, làm cho đoạn văn hay
hơn( mức độ phân tích ). Muốn đạt được điều đó thì ngoài việc biết cách
vận dụng học sinh còn phải biết phân tích xem việc dùng từ ngữ nào là
phù hợp nhất để đoạn văn trở nên hay hơn. Thông qua bài tập 2, học
sinh được rèn kó năng tư duy ở mức độ cao hơn đó là : vận dụng- phân
tích.
Bài tập 3: Viết một đoạn văn ngắn kể về một tấm gương hiếu học,
trong đó có sử dụng phép thay thế từ ngữ để liên kết các câu.
Yêu cầu của bài tập là học sinh phải tạo ra được một đoạn văn mới
có sử dụng phép thay thế từ ngữ để liên kết các câu ( mức độ tổng
hợp).Ngoài ra, học sinh còn phải biết cách đánh giá sản phẩm của mình
2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
và của bạn xem có đúng yêu cầu đề bài hay không ( mức độ đánh giá).
Thông qua bài tập 3, học sinh sẽ được rèn luyện kó năng tổng hợp- đánh
giá. Đó là những kó năng tư duy ở mức độ cao.
Hầu như các bài tập tiếng Việt nào ở lớp 5 cũng là một sự luyện tập
để nắm vững một kiến thức tiếng Việt hoặc rèn luyện một kó năng sử
dụng tiếng Việt, rèn luyện các thao tác tư duy. Vì vậy, trò chơi học tập
phải thể hiện được yêu cầu rèn luyện của bài tập. Có nghóa là trò chơi
học tập phải mang được nội dung của bài tập, phải rèn được kó năng sử
dụng tiếng Việt, phải rèn luyện các thao tác tư duy từ mức độ thấp đến
mức độ cao theo yêu cầu của bài tập.
II. THỰC TRẠNG :
Trong nhiều năm qua, mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học
Tiếng Việt nhưng một số giáo viên vẫn còn nặng tâm lý đây là môn học
chính nên trong quá trình giảng dạy họ rất chú trọng việc truyền thụ
kiến thức với mục đích giúp học sinh học tốt môn này. Việc sử dụng trò
chơi học tập đối với một số giáo viên còn là hình thức hoặc có sử dụng
trò chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn cưỡng. Mặt khác, còn một số
giáo viên khi sử dụng các trò chơi học tập thì chưa chọn lọc kỹ, không
có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu của bài học nên việc tổ chức trò
chơi chưa đạt hiệu quả. Thực tế cho thấy, vẫn còn một số đối tượng học
sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động học tập.
Trước thực trạng đó, tôi thiết nghó, mình cần phải thay đổi một cách
thức dạy học mới sao cho học sinh hứng thú, say mê và tích cực chủ
động hơn khi học Tiếng Việt. Qua đó, những kó năng giao tiếp ở các em
sẽ ngày càng hoàn thiện và phát triển. Và việc vận dụng trò chơi học
tập trong môn Tiếng Việt là hết sức cần thiết.
Học sinh tiểu học luôn thích thú những điều mới lạ. Vì vậy, để mỗi
giờ học Tiếng Việt hấp dẫn, thu hút học sinh, đòi hỏi người giáo viên
phải luôn luôn sáng tạo trong việc vận dụng những trò chơi học tập cũ
đồng thời tìm tòi, nghiên cứu để thiết kế những trò chơi học tập mới.
2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
I. VẬN DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP VÀO GIẢNG DẠY
TIẾNG VIỆT
Qua nhiều năm giảng dạy ở tiểu học đặc biệt là lớp 5, tôi đã sử
dụng rất nhiều trò chơi học tập trong dạy Tiếng Việt như : trò chơi ô
chữ, bingô, đôminô….Ngoài ra, trong năm học này, được tiếp cận với
lớp tập huấn phương pháp tích cực của bộ môn Tiếng Việt, đã cung cấp
cho tôi thêm nhiều ý tưởng vận dụng các trò chơi học tập vào giảng dạy
nhằm phát triển các kó năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp của học
sinh. Khi vận dụng cần lưu ý một số điểm sau :
1. Các yêu cầu khi vận dụng:
- Giáo viên cần phải nghiên cứu kó mục tiêu của bài tập vì nó quyết
đònh việc chọn trò chơi cho phù hợp.
Ví dụ : Tiết luyện từ và câu :‘’Từ đồng nghóa “ , Sách Tiếng Việt 5, tập
I, trang 8.
Bài tập 2 : Tìm những từ đồng nghóa với mỗi từ sau đây : đẹp, to lớn, học
tập.
Bài tập không yêu cầu học sinh nhận diện các từ đồng nghóa cho sẵn
( mức độ hiểu –biết ) mà mức độ yêu cầu của bài tập cao hơn, học sinh
phải tự nghó ra những đồng nghóa phù hợp với từ đã cho( mức độ vận
dụng – phân tích ). Vì vậy, đối với bài tập này chỉ phù hợp với những
trò chơi như : ong đi tìm tổ hoặc tổ chức chơi dưới hình thức thi đua giữa
3 dãy để tìm từ chứ không phù hợp với trò chơi ‘’ Tìm bạn “’. Nếu ta
vận dụng trò chơi ‘’ Tìm bạn ‘’ đối với bài tập này là vô tình ta làm
giảm mục tiêu của bài tập. Vì trò chơi ‘’ Tìm bạn’’ chỉ tổ chức được khi
từ ta cho sẵn, học sinh chỉ việc di chuyển và tìm bạn mang từ phù hợp
chứ học sinh không tự nghó ra từ.
- Giáo viên cần phải nắm được khả năng của từng học sinh để việc
phân nhóm chơi hợp lí. Nói chung, cần chọn hình thức nào lôi cuốn được
đông đảo học sinh tham gia nhất.
- Khi vận dụng các trò chơi trong học tập Tiếng Việt, người giáo viên
nên hoạch đònh trước việc sử dụng những phương tiện nào để nâng cao
hiệu quả của trò chơi . Có thể gồm :
2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
• Phương tiện theo nội dung trò chơi quy đònh ( Ví dụ như : trang
phục cho các nhân vật sắm vai….Loại phương tiện này thường
được sử dụng trong phân môn Tập đọc, kể chuyện… giúp học
sinh tái hiện lại nội dung câu chuyện hay nội dung bài đọc…. )
• Phương tiện phục vụ cho việc đánh giá ( Ví dụ như : Bảng đúng /
sai, mặt khóc/ mặt cười …)
• Phương tiện vật chất là phần thưởng cho đội thắng cuộc như các
phiếu khen tặng, một bông hoa điểm thưởng…Học sinh sẽ rất
thích thú khi biết được chơi thắng cuộc sẽ được thưởng. Nó là
động lực để các em tham gia trò chơi nhiệt tình, năng động hơn.
- Mục tiêu của trò chơi học tập là cung cấp kiến thức và rèn kó năng do
đó:
• Sau mỗi trò chơi, giáo viên cần gợi ý để học sinh rút ra các nội
dung, kó năng mà các em đã học được qua trò chơi.
• Việc đánh giá tổng kết trò chơi có thể giao cho học sinh tự nhận
xét, đánh giá và tổng kết để phát huy tối đa khả năng của các
em, giúp học sinh rèn luyện óc suy luận, kó năng tư duy, kó năng
giao tiếp từ đó các em sẽ trở nên tự tin, mạnh dạn hơn.
- Ngoài ra, khi tổ chức các trò chơi học tập cho học sinh, giáo viên cũng
cần lưu ý đến điều kiện cơ sở vật chất của trường, thời gian khi chơi và
sức khỏe của học sinh.
2.Cách vận dụng :
Có rất nhiều cách xếp loại trò chơi học tập :
• Theo mục đích sử dụng :
• Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức.
• Trò chơi rèn kó năng thực hành và củng cố kiến thức.
• Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy.
2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
• Theo yêu cầu rèn kó năng :
• Nghe
• Nói
• Đọc
• Viết
• Theo phân môn :
• Luyện từ và câu
• Tập làm văn
• Chính tả
• Kể chuyện
• Tập đọc
Để việc vận dụng có hiệu quả, trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm
này, tôi xin trình bày các trò chơi được phân loại theo mục đích sử dụng:
a. Các trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức : Trò chơi hái quả, trò
chơi tìm bạn, trò chơi tập trung……
Sau đây tôi xin giới thiệu cách vận dụng trò chơi ‘’ Tập trung ‘’khi dạy
bài ‘’ Từ đồng nghóa ‘’, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 7. Trò chơi được vận
dụng khi tìm hiểu bài.
- Mục tiêu :
• Giúp học sinh bước đầu hiểu được thế nào là từ đồng nghóa.
• Khơi gợi sự tập trung chú ý để tìm tòi kiến thức mới.
- Chuẩn bò : Đây là khâu khá quan trọng, khâu này quyết đònh 90% việc
tổ chức trò chơi có thành công hay không. Chính vì thế giáo viên phải
thực hiện một số việc sau đây :
• Chuẩn bò các đồ dùng phục vụ để tổ chức trò chơi. Đối với trò chơi
này, giáo viên cần phải chuẩn bò : 1 bộ thẻ ghi các cặp từ có nghóa
giống nhau hoặc gần giống nhau. ( có thể lấy từ ngữ liệu cần phân
tích trong phần nhận xét của bài học ở sách giáo khoa. )
• Chuẩn bò hệ thống câu hỏi dẫn dắt sau khi kết thúc trò chơi để học
sinh rút ra được thế nào là từ đồng nghóa ,đồng nghóa hoàn toàn và
đồng nghóa không hoàn toàn.
• Xác đònh rõ các bước tiến hành trò chơi.
- Tiến hành :
• Bộ thẻ từ được đính lên bảng lớp ( đặt úp thẻ xuống theo 2 dãy).
• Giáo viên chia lớp thành 2 đội chơi . Mỗi đội cử 1 bạn đại diện lật
thẻ và oẳn tù tì để giành quyền lật trước.
2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
• Đại diện mỗi đội lần lượt lật một thẻ từ ở mỗi dãy lên và trình bày
với lớp đây có phải là một cặp thẻ phù hợp hay không. Nếu hai thẻ
từ tạo thành một cặp thẻ từ có nghóa giống nhau hoặc gần giống
nhau thì người chơi được giữ cặp thẻ. Nếu hai thẻ không phù hợp,
người chơi đặt úp hai thẻ này vào lại chỗ cũ.
• Trò chơi kết thúc khi tất cả các cặp thẻ đồng nghóa được xác đònh.
Đội thắng cuộc sẽ là đội có nhiều cặp thẻ đồng nghóa nhất.
- Lưu ý :
• Giáo viên cần phải cân nhắc thật kó số lượng thẻ từ để thời gian
chơi không quá dài, làm mất sự tập trung chú ý của học sinh. Thời
gian tiến hành tốt nhất là khoảng 5 phút. Sau đó giáo viên sử dụng
hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh hình thành kiến thức trong vòng 5
phút tiếp theo là hợp lí. Thời gian còn lại nên dành cho việc luyện
tập hình thành kó năng.
• Giáo viên phổ biến cách chơi càng rõ ràng bao nhiêu thì việc tiến
hành chơi càng đỡ mất thời gian bấy nhiêu.
• Cần chú ý đến màu sắc của thẻ từ và độ lớn của chữ ghi trên thẻ từ
sao cho phù hợp, gây được sự chú ý của học sinh, học sinh ngồi cuối
lớp vẫn có thể nhìn thấy được.
• Trò chơi này cũng có thể vận dụng khi dạy bài ‘’ Từ trái nghóa’’.
Cách tổ chức như trên nhưng chỉ cần thay đổi ngữ liệu ghi trên thẻ
từ.
b Các trò chơi rèn kó năng thực hành và củng cố kiến thức : Trò chơi
tìm bạn, trò chơi câu cá, trò chơi thả thơ, trò chơi sắm vai, trò chơi ô, trò
chơi tập trung ……….
Tôi xin trình bày cách vận dụng trò chơi ‘’ Ô “vào phân môn Tập làm
văn bài :’’Luyện tập tả người ‘’, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 132 .
- Mục tiêu:
• Giúp học sinh phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, giúp cho các tiết
tập làm văn miệng trở nên lí thú hơn với học sinh.
• Tập cho học sinh làm quen với cách làm việc theo nhóm, nói trong
nhóm.
- Chuẩn bò :
2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
• Giáo viên phải phân loại học sinh để việc phân nhóm có sự chủ
đònh. Đối với trò chơi này , tốt nhất là một nhóm chơi chỉ nên có từ
4- 6 em và phải đủ trình độ.
• Chuẩn bò bảng trò chơi Ô hình rắn kích thước A0, các bộ thẻ hình,
xúc xắc, các vòng nhựa tròn hoặc ngựa đủ cho số nhóm đã phân.
- Tiến hành :
• Các nhóm học sinh nhận một bảng trò chơi Ô, bộ ảnh chụp, các
vòng nhựa màu khác nhau đủ cho các em trong nhóm và một xúc
xắc.
• Các nhóm đặt úp bộ ảnh chụp vào vò trí nơi đặt bộ thẻ hình trên
bảng trò chơi Ô.
• Tất cả các em trong nhóm cùng đặt các chấm nhựa tròn của mình
vào vò trí bắt đầu. Trong nhóm, lần lượt từng em đổ xúc xắc.
• Tùy theo số trên mặt xúc xắc mà em này sẽ di chuyển vòng nhựa
của mình theo số các vòng tròn nhỏ trên bảng trò chơi Ô sau cho
phù hợp. Nếu vòng nhựa của em vào vòng tròn màu đỏ lớn, em sẽ
lấy một ảnh theo thứ tự từ trên xuống của bộ ảnh.
• Em này xem ảnh và đặt 2-3 câu về người hoặc cảnh trong ảnh. Cả
nhóm cùng xem ảnh và nhận xét câu miêu tả của bạn.
• Sau khi thực hiện xong, em đặt ảnh chụp vào vò trí dưới cùng của
bộ thẻ. Nếu vòng nhựa của em vào các vòng tròn nhỏ thì em hết
lượt đi.
• Trò chơi sẽ kết thúckhi tất cả các em trong nhóm cùng về đến đích
hay tất cả các ảnh đã được học sinh xem và miêu tả hết.
- Lưu ý :
2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
• Trò chơi này có thể vận dụng ở nhiều phân môn khác nhau như :
Kể chuyện, chính tả , luyện từ và câu, tập đọc ( đọc hiểu ), tập làm
văn, chỉ cần thay đổi bộ thẻ hình hoặc câu hỏi ở nơi đặt thẻ.
• Mục tiêu của trò chơi sẽ thay đổi khi ta vận dụng trò chơi này ở
những phân môn khác nhau.

c Các trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy : Trò chơi
truyền điện, trò chơi tập trung, trò chơi tìm bạn, trò chơi thi viết câu
ghép, trò chơi những hình ảnh biết nói……
Sau đây tôi xin giới thiệu cách vận dụng trò chơi : ‘’ truyền điện.
Thời điểm chơi cuối tiết tập đọc – học thuộc lòng hoặc tiết ôn tập học
thuộc lòng.
- Mục tiêu :
• Rèn kó năng đọc trôi chảy, diễn cảm bài thơ.
• Rèn khả năng tập trung suy nghó cao độ.
• Rèn phản xạ nhanh, nhạy.
• Tạo hứng thú và không khí sôi nổi trong học tập.
- Chuẩn bò :
• Học sinh hai nhóm A & B ngồi quay vào nhau (hoặc đứng thành
hai hàng đối diện)
- Tiến hành :
• Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi: hai
nhóm bắt thăm (hoặc oẳn tù tì) để giành quyền đọc trước.
• Đại diện nhóm đọc trước (nhóm A) đọc câu đầu tiên của bài thơ rồi
chỉ đònh thật nhanh (truyền điện), một bạn bất kì của nhóm kia
(nhóm B), bạn được chỉ đònh đọc tiếp câu thơ thứ 2 của bài.
• Nếu đọc thuộc được chỉ đònh một bạn của nhóm A đọc tiếp câu thơ
thứ 3, cứ như vậy cho đến hết bài.
- Lưu ý :
• Trường hợp học sinh được “truyền điện” chưa thuộc, các bạn nhóm
đối diện sẽ hô từ 1 đến 5. Nếu không đọc được phải đứng yên tại
chỗ (bò điện giật). Lúc đó học sinh A1 chỉ tiếp học sinh B2… Nhóm
nào có nhiều người phải đứng (bò điện giật) là nhóm thua cuộc.
2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
• Ta có thể vận dụng trò chơi này để kiểm tra kiến thức ở nhiều phân
môn khác nhau như : Tập đọc, chính tả, luyện từ và câu. Vận dụng
như thế nào là tùy vào từng bài, tùy vào mục đích và nội dung cần
kiểm tra, củng cố.
Mỗi một trò chơi đều có thể vận dụng với mục đích sử dụng khác
nhau. Chẳng hạn như trò chơi ‘’ Tập trung’’ được vận dụng để dẫn dắt
học sinh hình thành kiến thức mới như đã giới thiệu ở phần trên nhưng
đồng thời cũng có thể vận dụng để rèn kó năng thực hành, củng cố kiến
thức hoặc ôn tập tổng hợp kiến thức. Điều ấy còn phụ thuộc vào mục
tiêu của từng bài tập.
Tóm lại, viêc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là rất
cần thiết.Thông qua trò chơi, các kó năng đọc, viết, nghe, nói được rèn
luyện, đồng thời kích thích khả năng ứng xử ngôn ngữ của học sinh, rèn
luyện tư duy linh hoạt và tác phong nhanh nhẹn , tháo vát , tự tin cho
học sinh. Tuy nhiên, việc vận dụng trò chơi học tập phải luôn đi kèm
với việc sáng tạo thiết kế ra trò chơi mới bởi học sinh tiểu học luôn ham
thích những cái mới lạ.
II. THIẾT KẾ TRÒ CHƠI HỌC TẬP :
Ngoài vận dụng, giáo viên phải biết thiết kế hoặc chuyển đổi một số trò
chơi để giảng dạy. Khi thiết kế thì cần :
• Xác đònh rõ mục tiêu của bài tập để chọn trò chơi phù hợp.
- Việc xác đònh yêu cầu của bài tập rất quan trọng, mục tiêu của bài
tập là cơ sở để lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp. Một bài tập có thể tạo
nên những trò chơi khác nhau.
Ví dụ : Bài tập 2 tiết Chính tả SGK/ 46 . Tìm các tiếng có chứa uô, ua
trong bài văn ‘’ Anh hùng Núp tại Cu-ba ‘’. Mục tiêu của bài tập là học
sinh nhận diện được các tiếng có chứa vần uô, ua.
Khi đó ta có thể tổ chức trò chơi có nội dung : Xếp các tiếng trong tập
hợp sau thành 2 nhóm, một nhóm gồm các tiếng có vần uô và một
nhóm gồm các tiếng có vần ua. Nếu yêu cầu của bài tập chỉ là tìm từ có
tiếng chứa vần uô hoặc ua thì mục tiêu của bài tập sẽ là mở rộng vốn
từ. Khi đó ta có thể tổ chức trò chơi có nội dung : tìm từ chứa tiếng uô
và ua dưới hình thức thi đua giữa hai dãy….
2
0
Sáng kiến kinh nghiệm
• Tiến hành thiết kế trò chơi
Giáo viên tiến hành thiết kế trò chơi có hình thức chơi rõ ràng
(người chơi, cách chơi…), nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội
dung bài tập của Sách giáo khoa hoặc bổ sung thêm nội dung tùy vào
việc xác đònh mục tiêu bài tập cần rèn của giáo viên. Đồng thời thông
qua đó rèn những kó năng cần thiết cho học sinh.
Một nội dung trò chơi có thể được thể hiện thành các hình thức tổ
chức trò chơi khác nhau.
Ví dụ : Nội dung trò chơi xếp các từ trong tập hợp sau thành hai
nhóm : một nhóm gồm các từ chỉ người, cơ quan, tổ chức thực hiện công
việc bảo vệ trật tự- an ninh, một nhóm gồm các từ chỉ hoạt động bảo vệ
trật tự, an ninh hoặc yêu cầu của việc bảo vệ trật tự, an ninh.
Ta có thể có các hình thức tổ chức chơi như sau :
 Trò chơi chung sức.
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên,
từng nhóm bàn bạc với nhau để thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi
nhóm đã thống nhất thì ghi kết quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của
nhóm lên bảng lớp. Giáo viên sẽ tính điểm các nhóm theo hai chuẩn :
Chuẩn chính xác và chuẩn nhanh nhẹn.
 Trò chơi thi tài.
Đơn vò chơi bây giờ là cá nhân. Từng em nhận yêu cầu của trò chơi
và ráng sức tự mình giải quyết yêu cầu của trò chơi. Giáo viên sẽ tìm
điểm thi đua cho cá nhân.
 Hai người ba chân.
Đây là biến tướng của trò chơi tiếp sức. Cứ 2 em trong nhóm phải
dùng dây buộc chân trái của mình với chân phải của một bạn khác. Hai
bạn sẽ chỉ hoạt động được ba chân. Từng cặp hai em phải đi bằng ba
chân lên bảng để thực hiện thao tác xếp từ theo nhóm.
• Tiến hành làm các đồ dùng phục vụ trò chơi :
Để tổ chức được các trò chơi thì cần phải có những đồ dùng phục vụ
nên khi thiết kế các trò chơi, người giáo viên cần phải làm thêm các đồ
dùng dạy học phục vụ cho trò chơi đó. Đồ dùng dạy học cần phải đảm
bảo được tính thẩm mỹ và khoa học.
Sau đây là một số trò chơi mà tôi đã thực hiện :
a. Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức :

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét