sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý…)
và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo…)
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau vể mặt lượng và cả về
mặt thời gian nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh
chi phí, không có chi tiêu thì sẽ không có chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ
của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết
cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này.
Như vậy, có thể kết luận rằng: chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực
hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự dịch
chuyển vốn- chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng
tính giá (sản phẩm, dịch vụ, lao vụ).
1.1.2 Phân loại chi phí sản xuất
Trong quá trình kinh doanh, chi phí sản xuất có rất nhiều loại, nhiều
khoản, khác nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí…. Để
thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại
chi phí sản xuất. Xuất phát từ những mục đích và yêu cầu khác nhau của quản
lý, chi phí sản xuất cũng được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Phân
loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm
sản phẩm khác nhau theo những đặc trưng nhất định.
Xét về mặt lý luận cũng như thực tế, có rất nhiều cách phân loại chi phí
khác nhau như phân loại theo nội dung kinh tế, theo công dụng, theo vị trí,
theo quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất ,…Mỗi cách phân loại này đều
đáp ứng ít, nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra, kiếm soát chi phí
phát sinh xét trên các góc độ khác nhau. Vì thế, các cách phân loại đều tồn
tại, bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất
5
và tính giá thành sản phẩm trên góc độ của kế toán tài chính, người ta thường
phân loại chi phí theo các tiêu thức sau:
a. Phân loại theo yếu tố chi phí
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban
đầu thống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh
của chi phí, chi phí được phân theo yếu tố. Về thực chất, chỉ có 3 yếu tố chi
phí là chi phí về lao động sống, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư
liệu lao động. Tuy nhiên, để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể
hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động,
việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí, các yếu tố chi phí trên có thể
được chi tiết hóa theo nội dung kinh tế cụ thể của chúng, Tùy theo yêu cầu và
trình độ quản lý ở mỗi nước, mối thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tó có
thể khác nhau. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được
chia thành các yếu tố chi phí như sau:
Chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên,vật liệu
chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ…được sử dụng cho
sản xuất-kinh doanh (loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho, phế liệu thu
hồi).
Chi phí nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh
trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi)
Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương: bao gồm tổng số
tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân,
viên chức.
Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: bao gồm
phần bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trích theo tỷ lệ quy
định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên.
6
Chi phí khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định
phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong
kỳ.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài
dùng vào sản xuất kinh doanh.
Chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa
phản ánh ở các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
b. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
Theo cách này, căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản
phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia
theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức
phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Cũng như cách phân loại theo yếu tố, số
lượng khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm tùy thuộc vào trình độ
nhận thức, trình độ quản lý và hạch toán ở mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau.
Theo quy định hiện hành tại Việt Nam hiện nay, giá thành sản phẩm
bao gồm 5 khoản mục chi phí:
Chi phí nguyên,vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên,
vật liệu chính, phụ, nhiên liệu…tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo
sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các
khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát
sinh.
Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân
xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp).
Ngoài cách phân loại như trên, chi phí sản xuất còn được phân loại theo
một số cách khác nhau như phân loại theo quan hệ của chi phí với khối lượng
7
công việc hoàn thành; phân loại theo quan hệ của chi phí với quá trình sản
xuất…Các cách phân loại này cũng đã được đề cập tới trong kế toán quản trị.
1.2. Khái niệm và phân loại giá thành sản phẩm
1.2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm
“Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của tòan bộ các khoản hao
phí về lao động sống và lao động vật hóa có liên quan đến khối lượng công
tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.”
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm 2 mặt: mặt hao
phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Những khoản chi phí ( bao gồm cả
những chi phí phát sinh trong kỳ và chi phí ở kỳ trước chuyển sang) và các
chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã
hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Hay nói cách
khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí
mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng
công việc sản phẩm, lao vụ và dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ.
Sơ đồ sau phản ánh mối quan hệ giữa CPSX và giá thành sản phẩm
Qua sơ đồ ta thấy : AC = AB + BD – CD hay:
Chi phí sản
xuất dở dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
Chi phi sản xuât dở dang
cuối kỳ
A
B
C
D
8
Tổng giá thành
sản phẩm hoàn
thành
= Chi phí sản
xuất dở
dang dầu
kỳ
+ Chi phí sán xuất phát
sinh trong kỳ( đã trừ
các khoản thu hồi ghi
giảm chi phí)
- Chi phí sản
xuất dở
dang cuối
kỳ
Qua sơ đồ ta thấy, khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở
dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc cách nghành sản xuất không có sản
phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát
sinh trong kỳ hạch toán.
Tóm lại, giá thánh sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hóa, nó
phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hóa
đã thực chi ra cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành
sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá
trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà
không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh giá trị thực
của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu
khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách
tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành
đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hóa tiền tệ, không xác định
được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng.
1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành
cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hóa, giá thành được xem xét dưới
nhiều góc độ và nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về mặt lý luận cũng như
thực tế, ngoài các khái niệm giá thành xã hội, giá thành cá biệt, còn có khái
niệm giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ,…
9
Xét theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành
được chia thành giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế:
- Giá thành kế hoạch: giá thành được xác định trước khi bước vào kinh
doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi
phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức
cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiene khác
với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên
tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức lại được
xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất
định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng nên giá thành định mức
luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được
trong quá trình sản xuât sản phẩm.
- Giá thành thực tế: giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi
kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá
trình sản xuất sản phẩm.
Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành giá thành
sản xuất và giá thành tiêu thụ:
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả
những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong
phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuât, bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, nhân công trực tiếp và chi phi sản xuất chung.
- Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các
khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí
sản xuất, quản lý và bán hàng. Do vậy, giá thành tiêu thụ còn gọi là giá thành
đầy đủ hay giá thành toàn bộ và được tính theo công thức:
10
1.3. Kế toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp
1.3.1. Trình tự hạch toán chi tiết chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm
Để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm được chính xác, nhanh
chóng, cần tiến hành hạch toán chi tiết chi phi sản xuất theo từng đối tượng
tính giá. Tùy theo từng đối tượng tập hợp chi phí, công việc hạch toán chi tiết
chi phí sản xuất có thể khác nhau nhưng có thể khái quát lại như sau:
Bước 1: Mở sổ (hay thẻ) hạch toán chi tiết chi phí sản xuất theo từng
đối tượng tập hợp chi phí (sản phẩm, nhóm sản phẩm, phân xưởng, bộ phận
sản xuất ). Sổ được mở riêng cho từng TK 621, 622, 627, 631, 154, 335.
142, 242, 641, 642. Căn cứ để ghi sổ là sổ chi tiết tài khoản tháng trước và
các chứng từ gốc, các bảng phân bổ (vật liệu, dụng cụ, tiền lương, BHXH, ,
khấu hao…), bảng kê chi phí theo dự toán. Các sổ có thể mở riêng cho từng
đối tượng hoặc mở chung cho nhiều đối tượng.
Bước 2: Tiến hành tập hợp các chi phí phát sinh trong kỳ có liên quan
cho từng đối tượng hạch toán.
Bước 3: Tiến hành tổng hợp toàn bộ chi phí phát sinh theo từng nội
dung thuộc từng đối tượng hạch toán vào cuối kỳ làm cơ sở cho việc tính giá
thành. Đồng thời, lập thẻ tính giá thành từng loại sản phẩm và dịch vụ theo
từng loại. Căn cứ để lập thẻ tính giá thành từng loại sản phẩm, dịch vụ chính
là các thẻ tính giá thành từng loại sản phẩm kỳ trước, sổ hạch toán chi tiết chi
phí sản xuất kinh doanh kỳ này và biên bản kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở
Giá thành
toàn bộ của
sản phẩm
tiêu thụ
=
Giá thành sản
xuất +
Chi phí quản
lý doanh
nghiệp
+
Chi phí tiêu thụ
sản phẩm
11
dang cuối kỳ cùng với các bảng kê khai khối lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn
thành trong kỳ.
1.3.2. Trình tự hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và
nội dung khác nhau, phương pháp hạch toán và tính nhập chi phí vào giá
thành sản phẩm cũng khác nhau. Khi phát sinh, trước hết chi phí sản xuất
được biểu hiện theo yếu tố chi phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản
mục giá thành sản phẩm.
Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp
lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp
thời được. Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng
doanh nghiệp, từng ngành nghề, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp và phụ thuộc vào trình độ công tác quản lý và
hạch toán tuy nhiên có thể khái quát chung việc tập hợp chí phí sản xuất qua
các bước sau:
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối
tượng sử dụng.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các nghành sản xuất kinh
doanh phục vụ cho từng đối tượng sử dụng trên 2 cơ sở là khối lượng và giá
thành dịch vụ.
Bước 3: Tập hợp, phân bổ chi phí sản xuất chung cho đối tượng liên
quan.
Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
1.3.3. Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường
xuyên
Phưong pháp kê khai thường xuyên là phương pháp quản lý và hạch
toán hàng tồn kho. Phương pháp này thực hiện theo dõi sự biến động của
12
hàng tồn kho một cách thường xuyên liên tục trên các tài khoản hàng tồn kho,
tần xuât nhập xuất không nhiều và thường có giá trị lớn.
Đối với công tác hạch toán kế toán chi phí sản xuất theo phương pháp
kê khai thường xuyên thì các chi phí sản xuất phát sinh sẽ được theo dõi, phản
ánh một cách thường xuyên, liên tục và kịp thời trên các tài khoản kế toán,
đảm bảo tính đầy đủ, chính xác của số liệu kế toán phản ánh và cung cấp
những thông tin hữu ích cho nhà quản lý.
1.3.2.1. Hạch toán chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính,
phụ, nhiên liệu được sử dụng trực tiếp cho sản xuất, chế tạo sản phẩm hay
thực hiện dịch vụ cho khách hàng.
Đối với nguyên vật liệu: nguyên vật liệu có thể được xuất dùng cho sản
xuất sản phẩm liên quan đến một hay nhiều đối tượng tập hợp chi phí khác
nhau, do vậy trường hợp liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí mà
không thể tổ chức hạch toán riêng biệt được thì phải phân bổ cho các đối
tượng theo tiêu thức phù hợp như theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo số
lượng, theo trọng lượng. Công thức phân bổ như sau:
Chi phí NVLTT phân
bổ cho từng đối tượng
(hoặc sản phẩm)
= Tổng tiêu thức phân
bổ của từng đối tượng
(hoặc sản phẩm)
+ Tỷ lệ (hệ số)
phân bổ
Tỷ lệ (hệ số)
phân bổ =
Tổng chi phí NVLTT cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
13
Chi phí NVL trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu đã xuất dùng
trong kỳ mà không bao gồm giá trị nguyên vật liệu sử dụng không hết nhập
lại kho hoặc chuyển sang kỳ sau.
a. Tài khoản sử dụng
Để theo dõi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621
“Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”.
b. Trình tự kế toán
Trình tự hạch toán chi phí NVL trực tiếp được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp KKTX
Chú thích:
(1) Xuất dùng nguyên vật liệu sử dụng cho hoạt động sản xuất sản phẩm hoặc
thực hiện dịch vụ cho khách hàng.
(2) Mua nguyên vật liệu không nhập kho mà sử dụng ngay cho hoạt động sản
xuất sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo
TK 152
TK 111,112,331
TK 133
(2a)
(1)
TK 621
TK 152
(3)
TK 154
(4)
(2b)
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét