tiêu biêu như các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn. Về quá trình
luân chuyển vốn, theo tiêu thức này thị trường được chia làm hai gồm có thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi các chứng khoán
được mua bán lẩn đầu tiên, giữa tổ chức phát hành với các tổ chức tài chính
lớn ra làm đại lý phát hành hoặc bảo lãnh phát hành. Thị trường thứ cấp là thị
trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành
nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội.
Thị trường này giữ một vai trò khá quan trọng trong việc tăng tính thanh
khoản của chứng khoán. Nhìn trên góc độ hình thức tổ chức thị trường ,thị
trường dược chia thành bốn thị trường là thị trường tập trung, thị trường phi
tập trung, thị trường thứ 3, thị trường thư 4. Trong đó thị trường tập trung hay
sở giao dịch là chịu sự quản lý của nhà nước, còn thị trường phi tập trung ,thị
trường thứ 3 ,thị trường thư 4 là bên ngoài sự quản lý của nhà nước, hoạt
động trên các thị trường này diễn ra liên tục 24/24.
Thị trường chứng khoán được sự tham gia của rất nhiều chủ thể, có thể
chia thành các nhóm sau chủ thể phát hành, nhà đầu tư, các tổ chức liên quan
đến thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư là những người có tiền, tham gia
vào thị trường để mua bán kiếm lời. Có hai loại nhà đầu tư là nhóm nhà đầu
tư cá nhân và nhóm các nhà đầu tư có tổ chức. Hai nhóm này khác nhau về
mặt quy mô kinh doanh và chuyên môn, kinh nghiêm, thông tin và ưu thế
luôn thuộc về nhóm nhà đầu tư có tổ chức. Chủ thể thứ ba là các tổ chức có
liên quan đến thị trường chứng khoán bao gồm cơ quan quản lý giám sát hoạt
động thị truờng chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà
kinh doanh chứng khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán,
các tổ chức hỗ trợ, các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam là điều hợp lý phù hợp
với xu hướng hiện nay, khi mà chúng ta gia nhập WTO và yêu cầu của phát
triển kinh tế với tốc độ cao đòi hỏi nhu cầu về vốn rất nhiều. Ngoài những
kênh huy động vốn thông thường từ các tổ chức tín dụng, thị trường chứng
khoán ra đời đã giúp cho việc tăng thêm địa chỉ để cho các doanh nghiệp có
5
thể huy động vốn phục vụ cho đấu tư phát triển kinh doanh. Thị trường chứng
khoán tạo cho các chứng khoán có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập
trung và phân phối vốn chuyển thời hạn vốn phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế. Nhờ có điều đó mà chúng ta có thể chuyển đổi chứng khoán thành
tiền một cách nhanh chóng, để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn. Thị
trường chứng khoán còn là cơ hội để chính phủ huy động các nguồn tài chính
tài trợ cho ngân sách mà không gây ảnh hưởng đến lạm phát, đồng thời cũng
là các công cụ của các chính sách tài chính tiền tệ để chính phủ điều tiết đến
nền kinh tế. Ngoài ra thị trường chứng khoán còn là một dự báo tuyệt vời về
tình hình nền kinh tế, vì vậy mà có thể coi thị trường chứng khoán như phong
vũ biểu của nền kinh tế. Từ những thông tin từ thị trường có thể giúp cho
chính phủ cũng như các công ty có đuợc những đánh giá hoạt động của mình
từ đó có những điều chỉnh tương thích. Tóm lại thị trường chứng khoán đem
lại rất nhiều thuận lợi cũng như khó khăn. Song nó mang lại thuận lợi hay bất
lợi là phụ thuộc vào tự bản thân các chủ thể tham gia và sự quản lý của nhà
nước.
2_ Công ty chứng khoán :
a_Khái niệm và phân loại công ty chứng khoán
Trước hết khi nói đến công ty chứng khoán thì chúng ta cần phải hiểu rõ
nó là gì. Công ty chứng khoán là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện
các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Theo quyết định 04/1998/QĐ-
UBCK3 ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCKNN, công ty chứng khoán là
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt
Nam, được Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc
một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Do đặc điểm của công ty chứng
khoán có thể kinh doanh trên một lĩnh vực, loại hình kinh doanh chứng khoán
nhất định, từ đó có thể phân chia công ty chứng khoán thành các loại sau:
Công ty môi giới chứng khoán; Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán;
Công ty kinh doanh chứng khoán; Công ty trái phiếu; Công ty chứng khoán
6
không tập trung. Mỗi loại công ty sẽ tương ứng với từng hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Như công ty môi giớichứng khoán thì thực hiện việc
trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty
bảo lãnh phát hành chứng khoán thì hoạt động chủ yếu là bảo lãnh để hưởng
phí hoặc chênh lệch giá. Tuy nhiên hiện nay đại đa số các công ty chứng
khoán của chúng ta đều thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh chứng khoán,
đa dạng hoá dịch vụ tăng thêm lợi nhuận cho công ty. Ví dụ như công ty cổ
phần chứng khoán Kim Long có các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu như: Tư vấn
tài chính và đầu tư chứng khoán, môi giới chứng khoán, tự doanh, lưu ký
chứng khoán.
Công ty chứng khoán là tác nhân thúc đẩy thị trường chứng khoán phát
triển và sự phát triển nền kinh tế nói chung. Công ty chứng khoán với các
nghiệp vụ nó tạo cho các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, các
chứng khoán có thể trao đổi dễ dàng thuận lợi trền thị trường chứng khoán.
Từ đó huy động được các nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng, các nhà đầu
tư để phân bổ vào nơi có hiệu quả. Điều đó được thể hiện qua các chức năng
dưới đây của công ty chứng khoán :
-Tạo cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa nhà đầu tư và chủ thể
phát hành, thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành.
-Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch, thông qua hệ thống
khớp lệnh hoặc khớp giá.
- Tạo ra tính thanh khoản cao cho các chứng khoán, thể hiện
qua việc hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt và ngược lại từ tiền mặt đổi
thành chứng khoán.
- Góp phần điều tiết bình ổn thị trường thông qua hoạt động tự
doanh hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường.
b_ Vai trò của công ty chứng khoán:
Với các chức năng trên mà các công ty chứng khoán có các vai trò khá
quan trọng trên thị trường chứng khoán với các chủ thể trên thị trường chứng
7
khoán. Đối với các tổ chức phát hành mục tiêu của họ khi tham gia vào thị
trường chứng khoán là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng
khoán. Nhưng để phát hành họ phải thông qua các công ty chứng khoán để
được bảo lãnh phát hành. Lúc nay công ty chứng khoán đóng vai trò nhà bảo
lãnh và đại lý phát hành, như vậy công ty đã tạo ra cơ chế huy động vốn phục
vụ cho nhà phát hành.
Đối với các nhà đầu tư thì công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi
phí và thời gian giao dịch từ đó nâng cao hiệu quả cho các khoản đầu tư.
Công ty chứng khoán thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư,
quản lý danh mục đầu tư để thực hiện điều này. Một nhà đầu tư trên thị
trường muốn thực hiện một giao dịch không qua trung gian để hạn chế chi
phí, nhưng người đó sẽ phải tốn rất nhiều công sức cũng như chi phí để tìm
hiểu thông tin.
Thông qua các công ty chứng khoán với trình độ chuyên môn cao và uy
tín nghề nghiệp có thể giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm chi phí và thời gian
sức lực và qua công ty chứng khoán thông tin sẽ bảo đảm, chính xác hơn.
Đối với thị trường chứng khoán thì công ty chứng khoán có hai vai trò
chính là góp phần tạo lập giá cả và điều tiết thị trường, góp phần tăng tính
thanh khoản cho các tài sản tài chính. Trong vai trò đầu tiên thì công ty chứng
khoán là người tạo lập giá cả cho thị trường và điều tiết thị trường. Điều đó
được giải thích như sau, giá cả giao dịch giữa các nhà đầu tư trên thị trường
không được trực tiếp thoả thuận mà thông qua công ty chứng khoán để đặt
lệnh trên thị trường. Còn trên thị trường sơ cấp thì giá cả được thoả thuận
giữa tổ chức phát hành và công ty chứng khoán, thông qua công ty chứng
khoán định giá cho chứng khoán của tổ chức phát hành. Như vậy công ty
chứng khoán đóng vai trò tạo lập giá cho thị trường. Ngoài ra các công ty
chứng khoán còn dành một tỷ lệ nhất định để nhằm ổn định thị trường. Công
ty chứng khoán làm điều này để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư, và còn là
bảo vệ chính bản thân công ty chứng khoán. Vai trò thứ hai của công ty chứng
khoán là góp phần làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Thị
8
trường chứng khoán có vai trò làm môi trường cho thanh khoản các chứng
khoán. Nhưng các công ty chứng khoán mới là người thực hiện điều đó, công
ty chứng khoán tạo ra một cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường
cấp 1 công ty thực hiện các hoạt động bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá.
Công ty chứng khoán không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản
xuất kinh doanh cho những nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản
cho các chứng khoán thông qua việc phát hành tiếp trên thị trường thứ cấp.
Sau khi phát hành trên thị trường thứ cấp, các chứng khoán có dễ dàng
chuyển đổi thành tiền mặt và ngược lại, thông qua các hoạt động của công ty.
Điều đó làm cho các nhà đầu tư yên tâm về khả năng thanh khoản cùa chứng
khoán, từ đó làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính trên thị
trường chứng khoán.
Đối với các cơ quan quản lý thị trường, công ty chứng khoán có nhiệm
vụ cung cấp thông tin trên thị trường cho các cơ quan quản lý. Các công ty
cung cấp được thông tin bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành vừa là
người trung gian môi giới mua bán và giao dịch trên thị trường. Công ty cung
cấp thông tin cho các cơ quan quản lý do nguyên tắc hoạt động của công ty
chứng khoán là phải công khai minh bạch, và nó cũng là một quy định của
pháp luật. Những thông tin mà công ty chứng khoán cung cấp được các cơ
quan quản lý sử dụng để kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng lũng
đoạn, bóp méo thị trường .
Tóm lại công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị
trường chứng khoán, có vai trò cần thiết đối với nhà đầu tư, tổ chức phát
hành, cơ quan quản lý thị trường, thị trường chứng khoán nói chung. Những
vai trò đó được thể hiện ở trong phần các nghiệp vụ của công ty chứng khoán
ở phần sau.
c_Thành lập công ty chứng khoán:
- Một tổ chức, hay cá nhân có nhu cầu thành lập một công ty chứng
khoán, họ sẽ phải đứng trước rất nhiều lựa chọn và quy định cho công ty của
mình. Trước tiên, lựa chọn đầu tiên là về mô hình của công ty trên thề giới
9
hiện nay có hai xu hướng là mô hình công ty chứng khoán đa năng và mô
hình công ty chứng khoán chuyên doanh. Cơ sở cho sự phân loại này đó là
phạm vi hoạt động của công ty chứng khoán trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh tiền tệ, các dịch vụ tài chính.
* Mô hình công ty chứng khoán đa năng là công ty được tổ chức dưới
hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh tiền tệ, và các dịch vụ tài chình. Có thể hiểu là các ngân
hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán,
bảo hiểm, kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới hai hình thức
đa năng một phần và đa năng hoàn toàn . Đa năng một phần là một ngân hàng
muốn kinh doanh nhiều hoạt động phải lập công ty con tương ứng với số
lượng hoạt động kinh doanh. Các công ty con hạch toán độc lập và hoạt động
độc lập với các lĩnh vực kinh doanh còn lại. Loại hình này được gọi là mô
hình ngân hàng kiểu Anh. Hình thức còn lại các ngân hàng được phép hoạt
động kinh doanh trực tiếp tại cùng một ngân hàng nhiều hoạt động chứng
khoán, tiền tệ, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính khác. Loại hình này có tên là
mô hình ngân hàng kiểu Đức. Hai hình thức này có những ưu nhược khác
nhau, loại hình kiểu Đức giúp cho ngân hàng kết hợp nhiều lĩnh vực kinh
doanh, nhờ đó hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh nhờ đa dang hoá đầu
tư .Ngoài ra hình thức này còn làm tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng
trước những biến động trên thị trường tài chính, các ngân hàng còn có thể tận
dụng lợi thế về quy mô .Tuy nhiên mô hình này không thể không có nhược
điểm, đó là sự phân tán trong hoạt động của nó . Điều đó sẽ làm giảm khả
năng chuyên sâu, chuyên môn hoá của công ty. Điều đó sẽ làm giảm đi sự
phát triển của thị trường vì lý do các ngân hàng thường có xu hướng bảo thủ
và thích hoạt động cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ thị trường chứng
khoán như bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản
lý doanh mục đầu tư. Và do không tách bạch đựoc hoạt động giữa ngân hàng
và hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong điều kiện môi trường pháp luật
không lành mạnh sẽ gây ra tình trạng lũng đoạn thị trường, và điều đó sẽ dẫn
10
biến động trên thị trường chứng khoán, và tác động mạnh tới kinh doanh tiền
tệ, gây ra khủng hoảng dây chuyền dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính.
Điều này được thể hiện ở việc ngân hàng có thể dùng vốn vay, nguồn tiền tiết
kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán, và khi thị trường chứng khoán biến
động xấu sẽ dẫn đến tinh trạng mất khả năng thanh toán không giả được nợ
của một ngân hàng rồi từ đó theo hiệu ứng dây chuyền mà kéo sập cả một hệ
thống tài chính khổng lồ trên thế giói như vào năm 1929-1933. Sau điều đó
các ngân hàng đã có xu hướng chuyển toàn bộ sang hình thúc kinh doanh kiểu
Anh, chỉ còn lại một số nước kinh doanh theo kiểu Đức.
* Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh, hoạt động kinh doanh
chứng khoán trong mô hình này sẽ do một công ty chứng khoán độc lập đảm
nhiệm và các ngân hàng không được tham gia. Mô hình này tách biệt hẳn hoạt
động giữa ngân hàng và công ty chứng khoán, từ đó hạn chế bớt rủi ro cho đối
với ngân hàng và thị trường tài chính. Đồng thời nó giúp cho các công ty
chứng khoán được chuyên môn hoá sâu hơn trong lĩnh vực chứng khoán, từ
đó thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. Mô hình này hiện nay đang
được ứng dụng khá rộng rãi ở nhiều nơi như Mỹ, Nhật, Thái Lan, Hàn Quốc
Ngày nay trong xu thế hình thành các tập đoàn tài chính khổng lồ mà một
thị trường đã cho phép hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, tuy nhiên
phải được tổ chức dưới hình thức các công ty mẹ con. Việt Nam hiện nay các
công ty chứng khoán được thành lập chủ yếu theo hình thức kiểu Anh. Một
ngân hàng bỏ vốn ra để thành lập công ty chứng khoán hoạt động độc lập với
ngân hàng mẹ, phù hợp với quy định ngân hàng không dược kinh doanh
chứng khoán.
- Lựa chọn đối với các công ty chứng khoán tiếp theo đó là về loại hình
tổ chức công ty. Hiện nay có ba loại hình tổ chức công ty chứng khoán là
công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.Trước tiên,
chúng ta tìm hiểu về loại hình công ty hợp danh. Công ty hợp danh là doanh
nhiệp có ít nhất là hai thành viên hợp danh, ngoài ra còn có thể có các thành
viên góp vốn. Thành viên góp vốn phải là các cá nhân, có trình độ chuyên
11
môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu toàn bộ trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Đối với thành viên góp vốn chỉ
phải chịu trách nhiệm trong phần vốn góp của mình. Loại hình công ty hợp
danh không được phép phát hành chứng khoán. Công ty hợp danh được thành
lập chủ yếu đối với những lĩnh vực trọng và có tính chất đặc biệt như tư vấn
tài chính, khám chữa bệnh, chứng khoán Nhưng để được thành lập công ty
rất khó khăn do đó loại hình này không được phổ biến ở Việt Nam, và chủ
yếu là sử dụng hai hình thức tổ chức công ty cổ phần, và công ty trách nhiệm
hữu hạn. Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công
ty là các cổ đông. Trong đó vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cổ đông nắm giữ cổ phần và chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số
vốn đã đóng góp vào doanh nghiệp. Điều khác biệt cơ bản giữa công ty cổ
phần với công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn là việc công ty cổ
phần được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn trên chính lĩnh vực mà
nó kinh doanh. Loại hình tổ chức công ty trách nhiệm hữu hạn có hai loại
trách nhiệm một thành viên và từ hai thành viên trở lên. Các thành viên của
công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Nhưng
vấn đề đáng quan tâm là các công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép
phát hành cổ phiếu, nhưng có thể phát hành một số loại chứng khoán khác để
huy động vốn. Tóm lại do khả năng huy động vốn được bằng cách phát hành
cổ phiếu và các loại chứng khoán khác mà hai loại hình tổ chức sau được ưa
dùng hơn hình thức công ty hợp danh. Và điều kiện thành lập công ty hợp
danh cũng rất phức tạp và khó khăn hơn hẳn so với hai loại hình còn lại.
- Nhưng ngoài các điều kiện để thành lập các công ty trên, kinh doanh
chứng khoán còn là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt đòi hỏi phải có một số
điều kiện kèm theo về các mặt vốn, nhân sự, cơ sở vật chất. Điều kiện về vốn,
công ty chứng khoán phải có mức vốn tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn
pháp định thường được quy đinh cụ thể cho từng loại hình hoạt động kinh
12
doanh. Trong quy định trước đây về vốn pháp định cho từng loại hình kinh
doanh chứng khoán tại điều 30 Nghị định 48/1998 như sau:
Môi giới : 3 tỷ đồng
Tự doanh : 12 tỷ đồng
Quản lý danh mục đầu tư : 3 tỷ đồng
Bảo lãnh phát hành : 22 tỷ đồng
Tư vấn đầu tư chứng khoán : 3 tỷ đồng
Tuỳ theo từng hoạt động kinh doanh cần có mức vốn tương đương theo
quy định trên. Nếu công ty chứng khoán xin cấp phép cho nhiều loại hình
kinh doanh thì mức vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của từng loại hình
riêng lẻ. Tại Nhật bản, đối với công ty chứng khoán tham gia 3 loại hình kinh
doanh môi giới, tự doanh, bảo lănh phát hành phải có mức vốn điều lệ là 10 tỷ
yên tương ứng với 1345.5 tỷ đồng. Còn bên Trung Quốc thì đối với công ty
chứng khoán đa năng thì vốn điều lệ là 500 triệu NDT, còn các công ty chứng
khoán chỉ chuyên môi giới thì vốn điều lệ là 50 triệu NDT.
Điều kiện về nhân lực đối với các các người quản lý và nhân viên công
ty chứng khoán phải đáp ứng các yêu cầu về kiến thức, trình độ chuyên môn
và kinh nghiệm, cũng như mức độ tín nhiệm, tính trung thực. Hầu hết các
nước đều yêu cầu nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành
nghề, ở nước ta những nhân viên môi giới, tư vấn, tạo lập thị trường cũng cần
phải có các chứng chỉ do Ủy ban chứng khoán cấp. Ngoài ra những người giữ
chức danh quản lý đòi hỏi phải có giấy phép đại diện.
Điều kiện về cơ sở vật chất, các tổ chức hay cá nhân sáng lập công ty
chứng khoán phải đảm bảo yêu cầu cơ sở tối thiểu cho công ty chứng
khoán .Do đặc thù của công ty chứng khoán là trung gian trong giao dịch mua
bán cổ phiếu cho nên nó đòi hỏi phải có đầy đủ cơ sở vật chất để thực hiện
các lệnh trong giao dịch. Hiện nay nước ta có trung tâm giao dịch thực hiện
khớp lệnh thông qua hệ thống máy tính công nghệ cao để khớp lệnh. Vấn đề
khớp lệnh đã được máy tính làm thay. Tuy nhiên để đưa được lệnh của nhà
đầu tư từ công ty chứng khoán về sàn giao dịch để khớp lệnh thì phải thực
13
hiện thông qua hệ thống mạng lưới điện thoại. Điều này làm hạn chế các rủi
ro trong quá trình giao dịch bằng mạng Internet, khắc phục khả năng tấn công
của tin tặc vào hệ thống mạng máy tính đánh cắp dữ liệu, phá hoại các giao
dịch. Sử dụng đường truyền điện thoại để khớp lệnh đòi hỏi phải hệ thống cơ
sở vật chất hiện đại để tăng khả năng khớp lệnh cho nhà đầu tư.
Hoàn thành xong các lựa chọn, điều kiện các nhà sáng lập phải xin cấp
phép của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Hồ sơ thông thường bao gồm các tài
liệu sau : đơn xin cấp phép, giấy phép thành lập doanh nghiệp, phương án
nhân sự, phưong án hoạt động, điều lệ công ty, các tài liệu minh chứng về
vốn, tình hình sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn của
đội ngũ quản lý và các giấy tờ khác theo quy định. Từ sau khi nộp đơn cho
đến khi nhận được cấp phép hoạt động nhà đầu tư phải đợi chờ khoảng ít nhất
là hai đến ba tháng. Và công việc cuối cùng của công ty chứng khoán sau khi
được thành lập đó là công bố thông tin trên đại chúng theo quy định của luật.
d_Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán.
Hoạt động trên thị trường chứng khoán rất là phức tạp, có rất nhiều điều
hạn chế đối với công ty chứng khoán trong quá trình kinh doanh. Điều đó đòi
hỏi các công ty chứng khoán hoạt động theo những nguyêng tắc nhất định để
khắc phục những sai sót, khiếm khuyết. Để khắc phục điều đó công ty chứng
khoán hoạt động dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đó là nhóm nguyên tắc đạo
đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính.
* Trước hết nói về nhóm nguyên tắc đạo đức, công ty chứng khoán là
trung gian trong giao dịch của khách hàng, và do đó công ty phải đảm bảo
giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng. Đồng thời có
nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng về các thông tin liên quan đến khách hàng
như thông tin về tài khoản, khi chưa được sự cho phép của khách hàng hoặc
có chỉ thị của các cơ quan quản lý nhà nước. Công ty chứng khoán khi hoạt
động tư vấn yêu cầu phải có các thông tin về mức độ rủi ro của hoạt động, và
khả năng sinh lời của nó. Để đảm bảo cho khách hàng không bị lừa gạt trong
các dịch vụ của công ty. Các công ty chứng khoán không được phép nhận bất
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét