CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
cách định nghĩa khác nhau về DNNVV. Các định nghĩa này có những điểm giống nhau
và khác nhau, vì vậy khó mà tìm ra một định nghĩa thống nhất mặc dù ai cũng biết rằng
kinh doanh nhỏ và vừa thì khối lượng công việc ít hơn, đơn giản hơn là ở các DN lớn.
Hiện nay không có tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới quy mô DN ở
các nước. Ở mỗi nước, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế cụ thể mà có
cách xác định quy mô DN trong từng giai đoạn nhất định.
Bảng 1: Tiêu thức phân loại DNNVV của một số nước
Lĩnh vực Công nghiệp Thương mại-Dịch vụ
Các nước DN vừa DN nhỏ DN vừa DN nhỏ
Mỹ
Dưới 3,5 triệu
USD
Dưới 500 lao
động
Dưới 3,5 triệu
USD
Dưới 500 lao
động
Nhật Bản
Dưới 100 triệu
Yên
Dưới 300 lao
động
Dưới 20 lao động
10 - 30 triệu Yên
Dưới 100 lao
động
Dưới 5 lao động
CHLB Đức
1 đến < 100 triệu
DM
10 < 500 lao
động
Dưới 1 triệu DM
Dưới 9 lao động
1-100 triệu DM
10 < 500 lao
động
Dưới 1 triệu DM
Dưới 9 lao động
Philippin
15 - 60 triệu Peso
Không quy định
1đ
< 15 triệu Peso
Không quy định
1đ
15 - 60 triệu Peso
Không quy định
1đ
< 15 triệu Peso
Không quy định
1đ
Đài Loan
1,6 triệu USD
4 -10 lao động
1,6 triệu USD
4 - 10 lao động
(Nguồn: Đỗ Đức Định-Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển DNNVV ở một số nước trên thế giới)
Xác định tiêu chí DNNVV ở Việt Nam
Cần thiết phải xác định DNNVV vì những lý do sau:
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 5
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
Phục vụ cho việc thống kê và phân tích
Để xây dựng và áp dụng chính sách
Thiết kế và áp dụng các dịch vụ hỗ trợ phát triển
Từ nhiều năm trước, khi chính phủ chưa ban hành chính thức tiêu chí quy định
DNNVV, một số cơ quan nhà nghiên cứu đã đưa ra các chỉ tiêu và tiêu chuẩn cụ thể
khác nhau để phân loại DNNVV. Có thể kể ra cách cách phân loại tiêu biểu sau:
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) căn cứ vào 2 tiêu chí lao
động và vốn của các ngành để phân biệt:
+ Trong ngành công nghiệp: DNNVV là tổ chức kinh tế có số vốn từ 5-10 tỷ
đồng và có số lao động 200-500 người. Trong đó DN nhỏ có số vốn dưới 5 tỷ đồng với
số lao động nhỏ hơn 200 người.
+ Trong ngành Thương mại-Dịch vụ: DNNVV là tổ chức có số vốn từ 5-10 tỷ
đồng và có số vốn lao động từ 50-100 người.
- Ngân hàng Công thương hoạt động cho vay tín dụng đối với các DN quy định rằng:
DN vừa là DN có vốn từ 5-10 tỷ đồng và số lao động từ 500-1000 người, DN nhỏ là DN
có số vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động dưới 500 người.
- Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, DN có vốn dưới
1 tỷ đồng và dưới 100 lao động được xếp là DN nhỏ, DN có vốn từ 1-10 tỷ đồng và có
từ 100-500 lao động là DN vừa.
Tóm lại, người ta thường dùng 2 tiêu chí vốn và lao động thường xuyên để xác
định DNNVV vì tất cả các DN đều có thể xác định được 2 tiêu thức này. Riêng tiêu thức
doanh thu ít được sử dụng vì đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì
tiêu chí này có thể biến động do nhiều yếu tố và khó xác định.
Để thống nhất tiêu chí xác định DNNVV, ngày 20/6/1998, Chính phủ đã ban
hành công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định DNNVV. Theo quy
định này, DNNVV là các DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình
hàng năm dưới 200 người. Quy định tạm thời này chỉ tồn tại 3 năm và ngày 23/11/2001,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV, Theo
quy định tại Nghị định này, “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao
động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế-xã hội cụ
thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ
giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả 2 tiêu chí vốn và lao động hoặc 1 trong 2 tiêu
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 6
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
chí trên”. Với tiêu thức phân loại mới này DNNVV ở nước ta chiếm tỷ trọng trên 90%
trong tổng số DN hiện có, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế
tư nhân. Điều này phù hợp với tinh hình kinh tế của nước ta vốn là nền kinh tế sản xuất
nhỏ và vừa là chủ yếu.
2. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam & thế giới
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới; đặc biệt là các nước đang phát triển
nói chung và Việt Nam nói riêng, Các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế,
đóng vai trò hết sức quan trọng. Đối với Việt Nam và cũng như tất cả các nước khác trên
thế giới DNNVV cũng đều đóng một vai trò quan trọng, vậy vai trò các DNNVV như
thế nào, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về vấn đề này.
2.1. DNNVV góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động
Đây là một thế mạnh rõ rệt của các DNNVV, và là nguyên nhân chủ yếu khiến
chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển loại hình doanh nghiệp này. Các DN này có
số lượng lớn, phân bố rộng rãi từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược,
nên mặc dù số lao động làm việc trong một DNNVV không nhiều nhưng theo quy luật
số đông, với số lượng rất lớn DNNVV trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn việc làm cho
xã hội. Mặt khác, các DNNVV loại này mang tính tư hữu cao, dễ dàng đa dạng hoá sản
phẩm, kể cả các mặt hàng mà các DN lớn không sản xuất ra. Sự lớn mạnh của các
DNNVV đã làm tăng thu nhập của công nhân và giảm tỷ lệ thất nghiệp của mỗi địa
phương nói riêng và toàn lãnh thổ nói chung.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường, các DNNVV thường tạo ra từ 70-90% việc
làm cho xã hội. Khi nền kinh tế suy thoái, các DN lớn phải cắt giảm lao động để giảm
chi phí đến mức có thể tồn tại được vì cầu của thị trường thấp hơn cung. Nhưng đối với
các DNNVV do đặc tính linh hoạt, dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên vẫn duy
trì hoạt động thậm chí vẫn phát triển. Do đó các DNNVV vẫn có nhu cầu về lao động.
Chính vì vậy, Hội đồng DN thế giới đã cho rằng: DNNVV là liều thuốc cuối cùng chữa
trị bệnh thất nghiệp khi nền kinh tế suy thoái.
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao và không ổn định, sức ép
dân số, lao động lên đất đai, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng di dân
từ nông thôn ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Khu vực DNNVV thu
hút khoảng 26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, mặt khác, các
DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động từ các DNNN dôi
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 7
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản DN hiện đang được triển
khai.
Do các DNNVV có thể phát triển ở khắp mọi nơi trong nước, nên khoảng cách
giữa nhà sản xuất và thị trường được rút ngắn lại, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các
vùng. Chênh lệch giàu nghèo không đáng kể, mỗi người dân có thể là một ông chủ, mỗi
gia đình có thể là một doanh nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người Việt Nam còn khá
thấp do kinh tế chậm phát triển. Phát triển DNNVV ở thành thị và nông thôn là biện
pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu nhập của các tầng lớp nhân dân khắp các
cùng trong nước.
2.2. Các DNNVV góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử
dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương
Với ưu điểm tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào ngõ ngách và yêu cầu số vốn
ban đầu không nhiều, mặt khác các DNNVV trong quá trình hoạt động, các DNNVV có
thể huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, DNNVV
được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản vay tiền
nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư. Nguồn vốn được trích từ
trong dân là nguồn vốn rất quan trọng, ở Trung Quốc nguồn ngân sách quốc dân có tới
75% là vốn từ trong dân, mặt khác nguồn vốn trong dân được sử dụng tối đa tránh được
việc gia tăng mức cung tiền trên thị trương, bình ổn thị trường tài chính. Những đồng
tiền nhàn rỗi từ trong dân được sử dụng để tạo thêm giá trị gia tăng, đem lại một giá trị
to lớn cho nền kinh tế.
Với quy mô vừa và nhỏ, lại được thành lập phân tán ở hầu khắp mọi nơi nên
DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về lao động, về nguyên vật liệu với trữ
lượng hạn chế, không đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất lớn, nhưng sản có ở địa phương,
sử dụng sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các DN lớn. Điều này cũng rất hợp
lý đối với nước ta, vốn là một nước có nền kinh tế lạc hậu, trình độ phát triển chậm, cách
kinh doanh nhỏ lẽ là thích hợp nhất đối với đại đa số bộ phận người dân. Mặt khác hơn
70% lao động tham gia trong lĩnh vực nông nghiệp, đạc điểm của ngành nông nghiệp là
tính thời vụ cho nên có một bộ phận lao động thất nghiệp tạm thời và lao động nhàn rỗi
tự nhiên, khi sử dụng mô thức kinh doanh này chắc chắn sẽ tận dụng tối đa các lao động
nhàn rỗi, mặt khác góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn
2.3. Các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong tổng số các Cơ sở SX-KD và ngày
càng gia tăng mạnh
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 8
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
Phần lớn các nước trên thế giới, số lượng các DNNVV chiếm khoảng 90% tổng
số doanh nghiệp. Tốc độ tăng số lượng các DNNVV nhanh hơn số lượng các DN lớn.
Các DNNVV hoạt động phổ biến trong tất cả các ngành công nghiệp, dịch vụ, từ công
nghiệp thủ công truyền thống đến các ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Do đặc tính của
mình mà các DN này rất dẽ dàng thích nghi với điều kiện kinh doanh, vốn không lơn,
mô thức kinh doanh và quản lý gọn nhẹ và đơn giản, đây là một thế mạnh mà chúng ta
không thể nào phủ nhận được. Một quy luật tất yếu của nền kinh tế cũng như cho toàn
XH đó là sự tồn tại song song và hổ trợ lẫn nhau của các bộ phận cấu thành nên xã hội.
2.4. Các DNNVV có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế
Chúng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên
thế giới, bình quân chiếm khoảng 50%GDP ở mỗi nước. Riêng ở Việt Nam, mỗi năm
các DNNVV đóng góp khoảng 25% GDP của cả nước. Các DN này có nhiều thuận lợi
trong việc khai thác những tiềm năng phong phú trong nhân dân, từ trí tuệ, tay nghề tinh
xảo, vốn liếng, ngành ngề truyền thống…Chỉ cần dùng một phép tính rất đơn giản ta có
thể nhận thấy rằng sự đóng góp của các DNNVV đối với không chỉ nước ta mà cả với
các nước khác là không hề nhỏ, tuy nó nhỏ nhưng số lượng rất đông đảo, lại rất đa dạng
về lĩnh vực ngành nghề.
2.5. Các DNNVV là nhân tố quan trọng tạo sự năng động nề kinh tế trong cơ chế thị
trường, đóng góp trong việc lưu thông và xuất khẩu hàng hoá
Với quy mô nhỏ lại năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh cùng với
hình thức tổ chức kinh doanh sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hóa mềm dẻo, hoà
nhịp cùng với những đòi hỏi từ nền kinh tế thị trường nên các DNNVV có vai trò to lớn
góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. DNNVV có nhiều cơ hội
đễ thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ.
Khi nền kinh tế phát triển, tạo nhiều cơ hội kinh doanh mới, sức mua tăng lên nhu
cầu lớn hơn, các DNNVV rất nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu.
Diều này rất khó thực hiện ở các DN lớn khi muốn đa dạng hoá mặt hàng sản xuất. Đối
với các DN lớn, DNNVV cũng có thể làm đại lý, vệ tinh tiêu thụ hàng hoá hoặc cung
cấp các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn, do đó góp phần hạ giá thành, nâng cao hiệu sản
xuất cho DN lớn.
Đây là thế mạnh rất riêng của các DN này cho nên số lượng của các
DNNVVngày càng đông về số lượng và đa dạng về chủng loại, những DN này góp phần
đáp ứng cho bộ phận thị trường người tiêu dùng và là nguyên liệu đầu vào cho các DN
lớn.
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 9
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
2.6. Các DNNVV có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự phát triển của các DNNVV sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, lam cho công nghiệp phát triển, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch
vụ, làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông thôn trong cơ cấu kinh tế quốc dân, đặc biệt
là ở nông thôn.
Với tính chất nhanh nhạy và dễ dàng bắt kịp với những thay đổi hay biến động
của thị trường, các DNNVV luôn đóng vai trò đi dầu trong mọi biến động trên cả hai
phương diện, thứ nhất các DNNVV sẽ là bước thử nghiệm sự thay đổi, thứ hai nó sẽ
đóng vai trò là những bản thảo, tích lũy được các kinh nghiệm đương đầu với sự thay
đổi cho các doanh nghiệp lớn. Sau khi có bước thay đỏi thành công nó sẽ là mô hình
hoàn hảo nhất cho sự thay đổi của các DN lớn, từ đó làm bước đệm thay đổi và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi để phù hợp với tình hình mới và quy luật kinh tế mới.
2.7. Các DNNVV góp phần dân chủ hoá nền kinh tế, duy trì sự tự do cạnh tranh và có
khả năng ứng biến nhanh nhạy
DNNVV chiếm một tỷ trọng lớn và đóng vài trò quan trọng trong việc tập trung
lực lượng kinh tế, lực lượng lao động. Sự phát triển không ngừng của các DNNVV góp
phần phân phối theo chiều hướng tương đối công bằng, mặt khác huy động nguồn sức
lao động lớn trong xã hội vào hoạt động sản xuất theo quy trình phân công LĐXH.
Tự do kinh doanh là con đường tốt nhất phát huy tiềm lực. Ở các DNNVV, tình
trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do kinh doanh. So với các xí
nghiệp lớn, các DNNVV có tính tự chủ cao, không ỷ lại sự giúp đỡ của nhà nước, sẵn
sàng khai thác các cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro.
Với những ưu thế nhỏ gọn, năng động, dễ quản lý; các DNNVV rất linh hoạt
trong việc học hỏi và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác động
lên. Do đó, các DNNVV sẽ có khả năng ứng biến nhanh nhạy, thay đổi hoàn cảnh, tự
điều chỉnh tổ chức sản xuất.
2.8. Các DNNVV là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp
Các DNNVV góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ doanh nhân,
ươm mầm các tài năng kinh doanh. Kinh doanh qui mô nhỏ sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện
các nhà doanh nhân làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh qui ô
nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh các doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên
thành những nhà doanh nghiệp lớn.
Đây cũng là một quy luật tất yếu đối với một nhà quản lý, điểm tích lũy sẽ hình
thành khi họ tham gia vào thị trường lao động, không con đường nào khác những nahf
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 10
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
quản lý DN lớn thành đạt đều xuất thân từ việc quản lý thành công một doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Mọi bước chạy của những con người thành đạt đều xuất thân từ những bước
chập chững ban đầu và môi trường kinh doanh của các DNNVV sẽ là nơi thử sức và trau
dồi cho những nhà quản lý ngương doanh ngiệp lớn hơn trong tương lai.
Tóm lại, DNNVV có nhiều ưu thế và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, nó không có tính loại trừ một quốc gia nào trong đó cá cả
Việt Nam. DNNVV ngày càng thể hiện được tầm quan trọng cũng như sự ảnh hưởng
của mình đến mọi mặt, tầm ảnh hưởng của nó mang diện rộng trên toàn thế giới, tuy
nhiên trong giai đoạn hiện nay nó thay đổi như thế nào và xu hướng chủ đạo của nó
trong trương lai sẽ ra sao, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vấn đề này ở những phần sau.
II/ Những khó khăn, thách thức của DNNVV trong xu thế hội nhập hiện nay
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay thì nền kinh tế không thể tránh
khỏi việc bị tác động, mức tác động được biến đổi tùy theo cường độ và sự thay đổi từng
lĩnh vực và từng khía cạnh của nên kinh tế - xã hôi. Các DNNVV cũng không nằm ngoài
các quy luật đó.
1. Tác động của hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Việt Nam
Mọi tác động đều mang tính hai mặt, khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa nền
kinh tế nước ta đứng trước thế và lực mới. Những thời cơ và thách thức đem lại từ việc
mở cửa sẽ góp phần thay đổi bộ mặt nền kinh tế nước nhà.
1.1. Những thời cơ khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế
Hội nhập kinh tế toàn cầu là một trong những hiện tượng nổi bật nhất của cuối
thế kỷ 20 và những năm đầu của thiên niên kỷ mới này. Đặc điểm nổi bật của hội nhập
kinh tế là sự gia tăng các luồng thương mại và đầu tư giữa các nước trên thế giới. Trong
một thế giới đang toàn cầu hoá, sự mở cửa các nền kinh tế nội địa, sự tăng cường của
các thể chế kinh tế quốc tế, và quyền lực của các công ty xuyên quốc gia đã đóng góp
vào việc thúc đẩy cấu trúc thị trường được hội nhập trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay,
hội nhập kinh tế là một xu hướng không thể tránh khỏi đối với tất cả các quốc gia trên
thế giới.
Việc hội nhập có hiệu quả vào hệ thống thương mại thế giới đòi hỏi mức độ tự do
hoá cao của mỗi nền kinh tế. Hội nhập kinh tế toàn cầu có thể mang lại những lợi ích lớn
cho các nước tham gia vào quá trình này. Mở cửa thương mại, tài chính và đầu tư quốc
tế đã đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu phát triển.
Hội nhập thương mại quốc tế cho phép các nước chuyên môn hoá sản xuất để đạt được
tính kinh tế của quy mô sản xuất. Đối với các nước có lợi thế so sánh như nguồn lực tự
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 11
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
nhiên dồi dào, lao động rẻ,… có thể thúc đẩy việc phân phối nguồn lực có hiệu quả hơn
và đẩy mạnh khả năng xuất khẩu của họ để đạt được lợi ích kinh tế tối ưu.
Mở cửa hội nhập sẽ giúp chúng ta tiếp cận được những cái mới trong lĩnh vực
công nghệ, cả công nghệ quản lý và cả công nghệ trong sản xuất. Bước chuyển biến
trong việc tiếp thu công nghệ sẽ góp phần làm thay đổi hiệu suất sản xuất, tăng năng suất
lao động. Những bước tiến công nghệ sẽ giúp chúng ta tiến xa hơn trong sản xuất và
kinh doanh. Hàm lượng công nghệ trong mỗi sản phẩm sẽ góp phần là tăng tính cạnh
tranh cũng như chất lượng của từng sản phẩm. Nhưng bước tiến quan trọng nhất trong
việc hội nhập mở cửa và tiếp thu công nghệ đó là công nghệ quản lý, chính sự quản lý
chuyên nghiệp sẽ làm thay đổi cách thức làm việc và tác phong công nghiệp trong sản
xuất, thay đổi được thói quen tập tục gắn liền với nông nghiệp của Việt Nam.
Mở cửa thương mại quốc tế cũng chính là một bước mở cửa thị trường, thị trường
rộng mở là điều mơ ước của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thương mại. Tận
dụng được lợi thế trong mở cửa thị trường sẽ tận dụng được các thời cơ và cơ hội kinh
doanh lớn. Khi mở cửa thị trường sẽ thúc đẩy được sự cạnh tranh lành mạnh, các doanh
nghiệp phải tự thân vận động, cả nền kinh tế cũng vận động để thay đổi để phù hợp với
nhu cầu của tình hình mới, cũng là phù hợp với quy luật tất yếu của sự vận động và biến
đổi.
Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa là thời cơ mà chúng ta nên chớp lấy để
phát triển nền kinh tế, trong đó các DNNVV cũng tự tạo được những thuận lợi được đưa
tới từ việc mở cửa và hội nhập này. Tuy nhiên, thời cơ lớn thì thách thức quả thực là
không nhỏ, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu điều này ở phần tiếp theo.
1.2. Những thách thức khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế
Do mức độ phát triển thấp, nên những thách thức hội nhập mà Việt Nam phải
đương đầu là rất lớn. Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của chính sách mở cửa kinh tế,
với những điều kiện ít thuận lợi hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Ví dụ
như khi gia nhập vào WTO, Việt Nam sẽ áp dụng hệ thống các nguyên tắc MFN và đối
xử quốc gia đối với tất cả các thành viên của WTO và hàng hoá và dịch vụ của họ. Vì
vậy, thách thức mà Việt Nam phải đối mặt hiện nay là làm thế nào để bảo đảm khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của quốc gia nói chung. Hiện nay, nền kinh
tế Việt Nam được cho là có khả năng cạnh tranh thấp so với các nước khác trong khu
vực. Bằng việc tự do hoá nhanh chóng thị trường của mình, kể cả các ngành công nghiệp
còn non trẻ, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khắc nghiệt
từ các đối thủ kinh doanh nước ngoài. Việc mở cửa thị trường cho hàng hoá, đầu tư và
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 12
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
dịch vụ nước ngoài, và những cam kết của Việt Nam để tạo ra một môi trường thuận lợi
cho kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho các doanh nhân nước ngoài có được sự tiếp cận
rộng hơn đối với thị trường Việt Nam. Một số ngành có khả năng cạnh tranh thấp như
dịch vụ, sẽ bị đặt vào những tình thế bất lợi, dẫn đến những tác động xấu đối với nền
kinh tế nói chung. Ngoài ra, do còn nhiều yếu kém, các doanh nghiệp nội địa khó có thể
đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế về đối xử ưu đãi mà Việt Nam sẽ nhận được
thông qua việc hội nhập nền kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hóa. Hậu quả là Việt Nam
có thể trở thành một nhà máy khổng lồ của các công ty nước ngoài.
Đối với ngành nông nghiệp, vòng đàm phán thương mại Doha đã đặt ra những
yêu cầu khó khăn hơn đối với ngành nông nghiệp của các thành viên mới, như, xoá bỏ
trợ cấp xuất khẩu, thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế an toàn thực phẩm, xoá bỏ hàng rào
bảo hộ và giảm thuế nhập khẩu lương thực. Do vậy, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ
phải đối mặt với những thách thức lớn khi đất nước gia nhập WTO. Kết quả là sẽ có sự
sụt giảm trong thu nhập bình quân đầu người của khu vực nông nghiệp, dẫn đến sự bất
bình đẳng ngày càng tăng giữa khu vực nông thôn và thành thị khi chúng ta mở cửa thị
trương quốc tế và gia nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế lớn này.
Về phía người lao động, việc mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế trong
xu thế toàn cầu hóa sẽ gây ra một số bất lợi cho họ. Những thách thức trong việc mở cửa
thị trường và xoá bỏ trợ cấp nhà nước và sự bảo hộ trong một số ngành sẽ dẫn tới việc
thu hẹp hoặc đóng cửa nhiều doanh nghiệp khiến cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Trong
những trường hợp như vậy, hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam không có khả năng hỗ
trợ những người cần sự giúp đỡ, do Việt Nam vẫn chưa có mạng lưới bảo hiểm thất
nghiệp. Cho đến nay, mới chỉ có 12% lực lượng lao động được hệ thống bảo hiểm xã hội
bảo vệ. Người lao động làm việc trong khu vực phi chính thức hoặc khu vực nông
nghiệp vẫn không được bảo vệ. Những khó khăn này đặt người lao động Việt Nam vào
những tình thế rất dễ bị tổn thương. Ngoài ra, hội nhập kinh tế thông qua WTO cũng sẽ
làm cho khoảng cách về thu nhập giữa lao động có kỹ năng và không có kỹ năng, giữa
nông thôn và thành thị ngày càng rộng. Đặc biệt, cơ hội cho người nghèo ở nông thôn
tham gia vào các hoạt động được toàn cầu hoá là rất ít do phần lớn trong số họ là những
người lao động không qua đào tạo.
Với Việt Nam và các nước đang phát triển nói chung, việc tham gia vào quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế không phải là một bảo đảm rằng nền kinh tế sẽ phát triển nhanh
chóng, thuận lợi. Lý thuyết và thực tế cho thấy tư cách thành viên mới chỉ là chiếc vé để
tham gia vào một trò chơi. Thành công đòi hỏi Việt Nam phải có những nỗ lực vượt bậc
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 13
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP GVHD: Th.S TRẦN THỊ TÚC
trong nhiều lĩnh vực để nắm bắt những cơ hội và giảm thiểu những tác động tiêu cực
trong quá trình hội nhập này. Tư cách thành viên mà Việt Nam sẽ đạt được là một cơ hội
để Việt Nam phát triển nhanh nền kinh tế, đồng thời, nó cũng mang lại những thách thức
lớn khi tham gia vào tổ chức WTO. Nhưng đó là thách thức trong cơ hội, và thách thức
cũng mang lại những cơ hội. Bằng việc tái cấu trúc nền kinh tế và khung khổ thể chế,
tăng khả năng cạnh tranh quốc gia,… Việt Nam có thể vượt qua được những khó khăn
và gặt hái những lợi ích từ quá trình toàn cầu hoá kinh tế ngày càng tăng này.
Mở cửa nền kinh tế của mình, có nghĩa là nước đó sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh khốc liệt từ những đối thủ nước ngoài. Hậu quả là, các doanh nghiệp trong nước,
đặc biệt là các DNNVV thiếu khả năng cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng khó khăn hoặc
đi đến phá sản. Nếu không có các chiến lược phát triển thích hợp của Chính phủ và bản
thân các doanh nghiệp, nền kinh tế sẽ phải chịu nhiều tổn thất từ hội nhập kinh tế. Các
DNNVV đang như con thuyền bé lênh đênh giữa đại dương rộng lớn, thị trường thế giới
sẽ trở thành một chiến trường khốc liệt hơn bao giờ hết, cuộc đấu sẽ luôn tiếp diễn đòi
hỏi các DNNVV phải không ngừng hoàn thiện mình và phát triển. Mở cửa tức là chấp
nhận bước vào cuộc chơi mà thôi, ai yếu thế và không sẵn sàng bước vào cuộc chơi sẽ bị
loại bỏ. Mô hình liên doanh liên kết giữa các DNNVV sẽ trở thành một khối đoàn kết,
giúp cho các DNNVV có thể vượt qua được những trở ngại trước mắt
Để thành công trong quá trình hội nhập kinh tế, các nước không nên chỉ dựa vào
những lợi thế so sánh mà họ có. Thực tế đã cho thấy rằng những lợi thế to lớn mà nhiều
quốc gia đang phát triển có được với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao
động rẻ và dồi dào… đã không phải là chiếc chìa khoá vàng dẫn các nước này đến sự
thịnh vượng. Điều quan trọng là, các nước phải nắm bắt được lợi thế cạnh tranh thông
qua tri thức, sự đổi mới và nguồn vốn con người để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền
vững.
2. Những khó khăn và thách thức đặt ra với DNNVV
Tuy có được những điều kiện rất thuận lợi song các doanh nghiêp nhỏ và vừa
đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Đặc biệt là trong xu thế hội nhập đòi hỏi
sự nỗ lực vượt bậc về tất cả mọi mặt, thách thức đặt ra cho các DNNVV và phải vượt
qua được các thử thách là điều tất yếu trong quy luật phát triển của DNNVV
2.1. Những khó khăn đối với DNNVV
2.1.1. Bất cập về trình độ quản lý và công nghệ
SVTH: TRẦN THANH HẢI – 30K04 – KHOA KINH TẾ
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét