Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
VĂN MINH TIỂU PHẨM
Đã có người hỏi tôi câu hỏi này mà tôi không trả lời được: "Nói
dân tộc Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến. Nhưng có thấy cái gì
đâu!" không phải vì tôi hoàn toàn không có gì mang ra làm bằng
chứng để trả lời. Nhưng tôi biết rõ những cái tôi mang ra, người hỏi
ấy chẳng đọc được, và do vậy, cũng chẳng hiểu được. Một thế hệ mất
gốc.
Đoạn tuyệt với quá khứ của cha ông không phải chỉ một thế hệ,
mà nhiều thế hệ. Trước thời còn Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một
giáo sư trường Đại học Văn khoa Sài Gòn khi giảng bài cho sinh viên
về văn học Việt Nam, ông nói: Việt Nam chỉ thực sự có văn học từ
khi có chữ quốc ngữ. Nghĩa là từ khi tiếng nói dân tộc được ký hiệu
bằng mẫu tự La-tinh. Văn chương chữ Hán, không phải là văn học
Việt Nam. Những sáng tác bằng chữ Hán không được kể vào văn học
Việt Nam. Các bản văn nổi tiếng, một thời đã từng làm nức lòng dân
Việt, quyết đem xương máu giữ gìn non sông; những bản văn ấy
không được kể vào văn học Việt Nam: bài thơ Nam Quốc của Lý
Thường Kiệt, hịch Tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô Đại Cáo
của Nguyễn Trãi. Chúng không thuộc văn học Việt Nam. Tất nhiên
cũng không thuộc văn học Trung Quốc. Phê bình của vị giáo sư này
có cơ sở lý luận của nó, nên rất dễ dàng được các sinh viên lúc bấy
giờ chấp nhận. Nhưng vì sau đó không có bao nhiêu người phụ họa
quan điểm văn học này nên chúng ta cũng không cần phải phân tích.
Điều thú vị đáng nói ở đây là, sau ngày Tổng Thống Diệm sụp đổ,
ông giáo sư đến thăm Hòa Thượng Trí Quang. Lúc bấy giờ tôi đang
là thị giả của Hòa Thượng tại chùa Ấn Quang. Tôi ngạc nhiên vì sự
viếng thăm này, nên tò mò hỏi Hòa Thượng. Tôi cũng nói cho Bạch
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Hòa Thượng biết rằng đó là vị giáo sư rất tích cực trong trường Đại
Học Văn Khoa Sài Gòn, chủ trương bác bỏ sự tồn tại của nền văn học
mệnh danh là Phật giáo Việt Nam. Hòa Thượng cho tôi biết, ông giáo
sư đến thăm, và thừa nhận đã sai lầm khi không công nhận Phật giáo
có vị trí trong lịch sử văn học Việt Nam, chỉ bởi lý do các thiền sư
toàn làm thơ bằng chữ Hán. Với tôi, đây là sự đính chính mang ý
nghĩa chính trị, chứ không thuần túy văn học. Ông Giáo sư văn
chương Việt Nam này có bằng cấp Tiến sĩ văn chương của nước Đại
Pháp; hoàn toàn không biết chữ Hán. Chữ Nôm do đó cũng không
biết. Quan điểm của ông một phần do hạn chế của ngôn ngữ, một
phần nữa do tác động chính trị bên ngoài. Chính hai yếu tố tác động
này đã khiến cho nhiều trí thức Việt Nam bị bứt khỏi gốc rễ truyền
thống.
Nhiều người trong số họ không hiểu gì về tâm tình yêu nước
Nguyễn Trãi; Nguyễn Bỉnh Khiêm, hay Nguyễn Du; những ưu tư của
kẻ sĩ mà chữ Hán nói "ýu thời mẫn thế" (Lại cũng thành ngữ Hán!)
Họ cũng không đủ tầm nhìn để đánh giá sự nghiệp của Lê Quý Đôn,
Phan Huy Chú; cũng không thể hiểu được một phần nhỏ Ngô Thời
Nhậm đã mơ ước những gì cho đất nước, cho dân tộc, khi quyết định
đi theo phò tá Nguyễn Huệ để bị Nho sĩ Bắc Hà bấy giờ chê trách là
"lừa Thầy phản bạn". Đơn giản, vì họ không có khả năng đi thẳng
vào thơ văn của tiền nhân mà không cần thông qua một trung gian
nào. Những hiểu biết thông qua các bản dịch có những giới hạn của
nó. Như một dịch giả Phạn-Hán nổi tiếng ở Trung Hoa nhận xét:
"Đọc tác phẩm qua bản dịch, chẳng khác nào ăn cơm do kẻ khác nhai
hộ rồi nhả ra. Chẳng những vô vị, mà đôi khi còn kinh tởm".
Nếu gạt bỏ một mảng lớn hay toàn bộ thơ văn các tiền nhân ra ngoài
lịch sử văn học Việt Nam, mà đại bộ phận được sáng tác bằng Hán
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
văn, quả thật dân tộc Việt Nam chỉ mới trưởng thành đây thôi, khi mà
văn minh phương Tây được truyền sang thông qua ký tự La-tinh được
gọi là chữ quốc ngữ, theo ý đồ xâm thực bằng văn hóa - tôn giáo -
chính trị.
Cái gọi là chữ quốc ngữ, rất tiện lợi cho việc phổ cập đại chúng
những tin tức cần biết tức thời. Chỉ trong giới hạn này mà thôi. Văn
chương, triết học, và cả đến khoa học, ký tự La-tinh không nhất thiết
là hữu hiệu hơn các loại ký tự khác. Nhất là về phương diện văn
chương, nó là những ký hiệu hay những biểu tượng vô tri, chia cách
con người ra khỏi thế giới tự nhiên mà nó đang sống; tạo thành
những hố ngăn cách rất khó vượt qua giữa các thế hệ. Có rất nhiều
người thuộc lòng truyện Kiều. Nhưng rất ít người có thể biết được
xúc cảm khác nhau khi đọc truyện Kiều qua ký tự La-tinh và qua bản
chữ Nôm. Hai loại biểu tượng của ngôn ngữ dẫn đến hai trạng thái và
hai trình độ xúc cảm khác nhau. Tất nhiên, nó cũng cho những tâm
thức văn học và ý thức mỹ cảm khác nhau. Đây là kinh nghiệm chủ
quan của những người thưởng thức. Nó không phải là nhận thức
khách quan để có thể dễ dàng chia xẻ với những người không cùng
chung bình diện ngôn ngữ.
Về phương diện truyền đạt kiến thức khoa học, ký tự La-tinh có
nhiều ưu điểm của nó. Điều này thì không ai chối cãi. Các ký hiệu
Hy-Lạp, La-tinh, đã được tiêu chuẩn hóa trên tầm mức quốc tế; do đó
những nước chọn ký tự La-tinh để chuyển tải ngôn ngữ dân tộc cảm
thấy có nhiều lợi thế khi tiếp cận khoa học. Song, đây không phải là
loại hình ký tự duy nhất để tiếp cận khoa học. Rất nhiều khái niệm
cũng như nhiều định lý toán học được khám phá không phải do các tư
duy và các thuật toán được thực hiện thông qua ký tự La-tinh. Vả lại,
với sự phát triển của vi tính hiện đại, ký tự La-tinh không phải là duy
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nhất không thể thay thế để tiếp cận khoa học. Nước Việt Nam chấp
nhận ký tự La-tinh như là công cụ chính thức để chuyển tải tư tưởng
và kiến thức, và cũng thường rất tự hào về loại hình ký tự phổ thông
và hữu hiệu này giúp người Việt nhanh chóng hội nhập nền văn minh
khoa học kỹ thuật phương Tây, song lịch sử gần đây thôi đã chứng tỏ
không phải vì vậy mà Việt Nam tiến bộ hơn Nhật Bản, Đài Loan, Hàn
Quốc hay Thái Lan. Thế thì, sự tiện lợi hay không tiện lợi của loại
hình ký tự không phải là yếu tố quyết định trong chức năng truyền
đạt, và lại càng không phải là yếu tố quyết định cho tiến bộ văn
minh. Ý nghĩa quyết định nằm trong tính thể của biểu tượng truyền
đạt của ngôn ngữ.
Chữ viết, mà chức năng là ký hiệu truyền đạt, và là biểu tượng
của tư duy, tự bản chất, phản ảnh phong thái sinh tồn của một dân tộc
trong ý thức cá biệt của nó, đồng thời cũng phản ảnh mối quan hệ và
ảnh hưởng hỗ tương giữa các dân tộc. Không thể nói loại hình nào ưu
việt hay tiện lợi hơn loại hình nào. Người học chữ Hán cho đến một
trình độ nào đó sẽ thấy rằng chữ "Uất" gồm 29 nét không phải là khó
nhớ hơn chữ "Nhất" một nét. Nói rằng chữ Nôm phức tạp cho nên
không tiện lợi để phổ biến cho bằng chữ La-tinh, điều này chỉ đúng
cho những người mà não trạng đã quen với tập tính lười biếng. Có
điều, hình như đại bộ phận trí thức của ta, từ mặc cảm tự ti, bị trị,
của một dân tộc nhược tiểu, muốn nhanh chóng rút ngắn con đường
giải phóng và cách mạng, để bắt kịp nền văn minh vật chất hào
nhoáng từ phương Tây rọi sang. Từ đó phát sinh ngày càng lộ liễu tập
tính lười biếng, chỉ cần bắt chước những gì được coi là chuẩn mực
của văn minh, không cần đến tư duy sáng tạo, điều mà tiền nhân của
chúng ta đã không ngừng trong suốt chiều dài lịch sử để tự tồn, bên
cạnh một thiên triều luôn nghĩ cách thôn tính và đồng hóa. Do đó,
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
người ta không nhìn thấy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình
hình thành chữ Nôm, trong cách cấu tạo tự hình trong đó hàm tàng
những cái nhìn về nhân sinh và thế giới. Chữ Nôm bị kết tội là làm
chậm bước phát triển của dân tộc, cho nên cần phải thay thế bằng chữ
viết khác.
Liên hệ mật thiết với quá trình hình thành chữ Nôm, là lịch sử
phát triển của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo ở đây cũng bị kết án
tương tự như chữ Nôm. Dầu sao, chữ Nôm cũng chỉ là ký hiệu
chuyển tải, truyền đạt, nên sự thay thế không gây thành công án gì
đáng nói. Phật giáo là tín ngưỡng của đại bộ phận nhân dân, là tầng
đáy cho mọi sinh hoạt mang ý nghĩa thiết cốt tồn vong của cả dân
tộc. Cho nên, nếu cần loại bỏ Phật giáo như loại bỏ một thứ chướng
ngại cho sự nghiệp cách mạng và giải phóng dân tộc theo chuẩn mực
chính trị – xã hội – tôn giáo phương Tây, Mác-xít hay phi-Mác-xít,
không thể không gây chấn động xã hội mà ở đây người ta có thể gọi
là Liệu Pháp Sốc. Cái Liệu Pháp Sốc này đã gây những thương tổn
đáng kể cho Phật giáo Việt Nam. Mười năm dưới chế độ Cộng Hòa
của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ở miền Nam, hai mươi năm dưới
chế độ chuyên chính vô sản ở miền Bắc, rồi trên hai mươi lăm năm
dưới chế độ toàn trị trên một đất nước thống nhất, văn hóa Phật giáo
Việt Nam chỉ đang tồn tại như một bóng mờ thấp thoáng bên dòng
sông không định hướng của lịch sử Việt Nam.
Phải thú nhận rằng, cho đến bây giờ mà nghĩ lại tôi vẫn tự thấy
xấu hổ, một thời tuy đã học hết Trung học mà vẫn không biết Ngô
Thời Nhiệm là ai trong dòng lịch sử tư tưởng của dân tộc, ngoại trừ
chỉ biết rằng ông là nhà Nho thức thời, bỏ Lê chạy theo Nguyễn Huệ,
để rồi bị Đặng Trần Thường đánh chết trước Văn Miếu. Lý do có thể
đơn giản, vì con đường mang tên Ngô Thời Nhiệm không lịch sự và
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
trang trọng như con đường mang tên Alexandre de Rhode. Còn nhiều
thứ phải xấu hổ như thế nữa cho một học sinh thuộc thế hệ của tôi.
Phật giáo ở miền Nam, tuy bị khống chế và nhiều khi còn bị khinh
miệt dưới triều Tổng Thống Ngô Đình Diệm, dù sao cũng còn may
mắn, cũng nên gọi là may mắn, có được mười năm để tự chấn hưng
và phát triển sau khi chế độ Duy linh nhân vị của Tổng Thống Diệm
sụp đổ. Mười năm đó chỉ vừa mới đủ để Phật giáo Việt Nam tự xác
định tầm vóc và vị trí của mình trong lịch sử văn hóa - chính trị - xã
hội của dân tộc. Nó chưa đủ thời gian để cống hiến cho dân tộc
những bông hoa rực rỡ như trong quá khứ. Trong khi đó, Phật giáo
Việt Nam tại miền Bắc chỉ tồn tại trên hình thức như một tổ chức
chính trị. Nói một cách tượng hình, nó chỉ hiện diện như một cái cúc
áo cài trên bộ đại cán mỗi khi các lãnh tụ xuất hiện trước cộng đồng
thế giới mà không bị "hở lưng". Để xác nhận cho miền Nam biết Phật
giáo không còn tồn tại như một thực tại quần chúng, ngài Chủ tịch
Hội Phật giáo Việt Nam xuất hiện trên lễ đài chiến thắng sau ngày 30
tháng tư với chiếc áo sơ-mi cụt tay của một cán bộ Mặt trận, chứ
không xuất hiện như một vị chân tu khả kính mà Phật tử Việt Nam
trong cả hai miền Nam Bắc từ lâu đã ngưỡng mộ. Với trí thức miền
Nam, người ta biết rằng chiến lược văn hóa xã hội chủ nghĩa thay thế
văn hóa dân tộc được đề xướng bởi Trường Chinh đã thành công, ít
nhất về mặt hình thức.
Năm 1945, khi vừa tiếp thu Hà Nội, Trường Chinh, lúc bấy giờ
là Bí thư thứ nhất của đảng Lao Động Việt Nam mà chủ tịch là Hồ
Chí Minh, đã công bố cho giới trí thức Hà Nội một bản đề cương văn
hóa, trong đó ông Bí thư nói rõ: phong trào chấn hưng Phật giáo Việt
Nam hiện tại chỉ là sách lược ru ngủ nhân dân của thực dân Pháp.
Bằng tuyên bố này, số phận của Phật giáo Việt Nam đã được đưa ra
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
trước tòa sơ thẩm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nhưng khi được
đưa ra chung thẩm trước tòa án nhân dân và lịch sử, tình tiết trở nên
phức tạp. Phức tạp trước hết là từ quan điểm của Các-Mác về đồng
minh giữa giai cấp vô sản và nông dân. Sau khi phân tích những
nguyên nhân khiến công xã Paris thất bại, Mác cảnh báo về những kẻ
thù của giai cấp vô sản. Mác vạch rõ, trong đấu tranh vũ trang để
dành chính quyền từ tay tư sản, nông dân là đồng minh thiết yếu của
giai cấp vô sản. Nhưng khi đã dành được chính quyền, người vô sản
vẫn phải giữ vững tay súng để tiến hành cách mạng. Vì kẻ thù của vô
sản bấy giờ chính là nông dân.
Khi cách mạng vô sản Nga thành công, vì lực lương vô sản ở
đây chưa đủ để tiến hành cách mạng theo con đường Mác đã vạch,
Lê-nin đề ra chính sách liên minh công nông, với ngọn cờ Búa Liềm
như là biểu tượng trong giai đoạn quá độ. Qua các tác phẩm văn học
trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Nga, trong quá trình tập thể
hóa nông nghiệp, các nhà văn Xô-viết đã cho thấy cái não trạng, tập
tính phản động của tuyệt đại đa số nông dân.
Kinh nghiệm xây dựng chính quyền vô sản từ Liên-Xô đã cho
Việt Nam những bài học thiết thực. Muốn tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa như Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở. Điều này có nghĩa là phải thay đổi não
trạng của nông dân Việt Nam, đang là chủ lực, không chỉ trên mặt
trận vũ trang để giữ vững chính quyền vô sản non yếu và tiến hành
chiến tranh giải phóng miền Nam; mà nông dân còn là lực lượng lao
động chính để xây dựng hạ tầng cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Cần phải
thay đổi não trạng của nông dân mới mong lấy đó làm chỗ dựa cho
cách mạng vô sản. Trong khi đó, đại bộ nông dân Việt Nam đều
mang tín ngưỡng Phật giáo. Tuy tín ngưỡng đó không sâu sắc, nhưng
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nó đã trở thành tập tính dân tộc không thể gột rửa dễ dàng bằng vài
ba lý luận mập mờ của chủ nghĩa duy vật chống tôn giáo. Do đó Phật
giáo là một trở lực đáng kể. Nói cách khác, muốn thay đổi não trạng
của đông đảo nông dân, để nhanh chóng thành công trong bước đi lên
của giai đoạn quá độ xã hội chủ nghĩa, trước hết phải triệt tiêu Phật
giáo. Lịch sử cần phải viết lại dưới ánh sáng duy vật sử quan. Lập
trường phê phán của các sử gia bấy giờ là vẽ lên bức tranh ảm đạm
của quá khứ, trong đó bọn tăng lữ cấu kết với bọn quý tộc để bóc lột
nhân dân.
Sau những năm tám mươi, sau khi hằng loạt biện pháp khống
chế và triệt tiêu, với một cơ sở có tính chất gần như pháp chế xã hội
chủ nghĩa là chế độ "Nhất tăng nhất tự" để cưỡng bức tăng ni trẻ
hoàn tục, đã vấp phải phản ứng quyết liệt mà có khi lên đến cao điểm
bằng những vụ tự thiêu, tự tử, và những bản án tử hình, đảng CS đã
xét lại chính sách tôn giáo. Tổng Bí thư bấy giờ là Nguyễn Văn Linh
tuyên bố: "Phật giáo là chỗ dựa cho người cộng sản Việt Nam làm
cách mạng". Đây không phải là sách lược mới mẻ. Nó chỉ áp dụng
thủ đoạn mà Lê-nin đã vạch ra cho chính sách tôn giáo của Liên-Xô.
Lê-nin nói: "Đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp quần chúng".
Sự xuất hiện sau năm 1982 của một tổ chức được mệnh danh là Giáo
hội, mà thực chất là một tổ chức chính trị nằm trong Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam do cán bộ CS lãnh đạo, cho thấy trước sau như một,
đảng CS Việt Nam đã vận dụng các biện pháp kinh điển xã hội chủ
nghĩa được thi hành tại Liên-Xô cũng như tại Trung Quốc và trong
tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác. Không có cái gì xứng đáng để
nói là các chính sách kinh điển ấy được áp dụng một cách sáng tạo
tùy theo bối cảnh lịch sử của xã hội Việt Nam.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Sự sao chép một cách mù quáng các sách lược xã hội chủ nghĩa
kinh điển không chỉ gây chấn thương trầm trọng cho Phật giáo Việt
Nam, mà trên đại thể nó còn gây rất nhiều tổn hại khó khôi phục cho
kho tàng truyền thống văn học và tư tưởng Việt Nam.
Cho đến hiện tại, gần ba mươi năm hòa bình, Phật giáo Việt
Nam không có những sinh hoạt văn hóa giáo dục nào đáng kể. Những
gì mà Phật giáo Việt Nam tại miền Nam đã làm được trong suốt thời
kỳ chiến tranh và chia cắt, nay chỉ còn là những hoài niệm trong trí
nhớ với nhiều tiếc nuối của thế hệ lớn tuổi. Tầng lớp trẻ hầu như
không biết gì nhiều về quá khứ đó. Chỉ mới trong khoảng chưa đầy
ba mươi năm thôi, mà một quá khứ đáng tự hào của Phật giáo Việt
Nam trong lòng dân tộc đang bị quên lãng, và đang có nguy cơ biến
mất. Với ý nghĩa biến mất, chúng ta muốn nói đến sự biến chất. Bởi
vì, dưới phương châm "đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội", Phật
giáo Việt Nam sẽ không tồn tại và trưởng thành như đã từng trong
quá khứ. Ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội là vô thần. Phật giáo Việt
Nam muốn tồn tại phải biến chất để thích ứng; phải tiến lên thành
một tôn giáo vô thần theo định nghĩa của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Một thứ Phật giáo theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn quái
dị hơn một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
mà nhiều phê bình gia kinh tế nhận xét.
Đây không phải là điều nói suông trên lý thuyết. Nhiều cuộc
hội thảo với các chuyên đề Thiền Trúc Lâm với tư tưởng Hồ Chí
Minh, hay Thiền Trúc Lâm với chính sách đổi mới của đảng CSVN,
được tổ chức bởi các Viện nghiên cứu lịch sử, văn học, tư tưởng do
các đảng viên công tác văn hóa chủ trì. Trong các hội nghị đó, mặc
dù chuyên đề Phật giáo, nhưng không có tăng sĩ Phật giáo tham dự,
hoặc chỉ tham dự như khách mời. Điều này có thể có hai lý do. Một,
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
học thức của tăng sỹ Phật giáo Việt Nam hiện tại quá kém, không đủ
trình độ tham dự. Hoặc, đây là hội nghị của cán bộ đảng làm công tác
văn hóa, không liên quan gì đến Phật giáo. Ý đồ của đảng là sau khi
cải tạo thành công Phật giáo Việt Nam; nó sẽ là một nhân tố trong
các nhân tố mang tính dân tộc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chừng đó, Việt Nam sẽ là mô hình xã hội chủ nghĩa thích hợp cho
các nước nhược tiểu và chậm tiến. Không phải không có cơ sở khi
người Anh Cả Trung Cộng chỉ trích Việt Nam xã hội chủ nghĩa có
tham vọng tiểu bá. Mặc dù tham vọng đó thực chất chỉ nằm trong lý
thuyết; là chuyên đề cho các cán bộ văn hóa nghiên cứu để có việc
làm.
Một thời, khi hai tập sách "Thơ Văn Lý Trần" có tầm cỡ được
công bố như là công trình nghiên cứu có thành tích đáng tuyên
dương, chủ nghĩa xã hội và Phật giáo Việt Nam hình như đang có cơ
sở để nhích lại gần nhau và hợp nhất trong lòng dân tộc, và dưới đài
quang vinh của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặc dù cả hai ý thức hệ được
xem là đang tiếp cận nhau, nhưng trong đối thoại giả thi thiết này,
người nói và người nghe đều là Mác-xít cả.
Sự gán ghép đạo pháp vào chủ nghĩa xã hội chẳng khác nào
buộc con chó nhà và chó sói vào một sợi dây, để khi có sự biến, một
con tìm cách chui xuống gầm giường, một con cố gắng phóng mình
trở lại rừng. Hai con thú dằng co nhau bởi một sợi dây oan nghiệt.
Chỉ trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ mà những thành tựu quá khứ của
một nền văn hóa dân tộc hầu như không được thế hệ thừa kế biết đến
và trân trọng, thế thì chúng ta tìm dấu vết của hai nghìn năm lịch sử
về trước bằng cách nào? Cho nên, khi nghe một tăng sỹ trẻ, hình như
đã tốt nghiệp Đại học, hỏi tôi một cách chân tình: "Thưa Thầy, Phật
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
giáo Việt Nam là gì?" tôi cảm giác đã có sự cách biệt giữa hai thế hệ,
phân ly bằng một bức tường ý thức hệ.
Phải chăng, quả thật rằng, qua suốt trên dưới hai nghìn năm
hiện diện, Phật giáo Việt Nam không có thành tựu gì đáng được nhắc
đến? Có đấy, vả lại, có rất nhiều nữa chứ không phải chỉ dăm ba
trang sách nhặt lượm đâu đó.
Đây, một câu hỏi khác cũng cần được nêu lên: "Tại sao, một
đất nước như Campuchea, so với Việt Nam thì quả là nhỏ bé, lại có
thể sở hữu một công trình vĩ đại như Angkor Wat; trong khi đó Việt
Nam xem ra không có gì tương tự để so sánh và thẩm định? Chùa
Một Cột được làm biểu tượng cho tinh thần Phật giáo Việt Nam, lại
được nhiều người cho rằng nó chỉ lớn hơn chuồng chim bồ câu một
chút?"
Chúng ta đang nói đến sự cần thiết của một phương pháp luận
chuyên biệt của sử học để thẩm định giá trị của những gì tiền nhân đã
tựu thành; những thẩm định không mô phỏng một cách hời hợt theo
bậc thang giá trị biểu kiến của nền văn minh vật chất, và khoa học kỹ
thuật, của phương Tây hiện đại.
Phương pháp luận được nhiều nhà viết sử Phật giáo Việt Nam
đây sử dụng đại để mang tính chủ quan. Sử gia không có nhiều dữ
kiện lịch sử trong tay, nên phải dựa trên trí thông minh của mình suy
luận. Dữ kiện đã ít, lại mối quan hệ giữa chúng cũng rất khó xác lập.
Chẳng hạn, khi một sử gia muốn vẽ lại sinh hoạt Thiền môn thời
Trần; ông hầu như hoàn toàn không có dữ kiện, hoặc có mà rất ít, và
cũng không tìm ra đầu mối quan hệ để nối kết chúng lại với nhau.
Cho nên, ông căn cứ vào sự quan sát sinh hoạt thường nhật của một
ngôi chùa cổ nào đó ở Huế, rồi thay đổi niên đại và hoàn cảnh, tự
nhiên ta có toàn cảnh sinh hoạt Thiền môn cách đây gần một nghìn
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
năm. Trong trường hợp này, sử gia không chỉ cần bác lãm thư tịch,
mà còn phải có thêm óc tưởng tượng của một nhà văn, một người viết
tiểu thuyết.
Thế nhưng, cũng có trường hợp sử gia khi phát hiện cấu trúc
bất thường của một vài từ ngữ từ một bản Hán dịch, đã có thể viết lại
chi tiết đáng khâm phục về một giai đoạn lịch sử Phật giáo Việt Nam,
tưởng chừng như vĩnh viễn là khu vực bỏ trống. Đó là giai đoạn trước
và sau kỷ nguyên Cơ Đốc. Không chỉ là một giai đoạn của Phật giáo
Việt Nam, mà từ đó còn có thể phác thảo ra những quan hệ, những
trao đổi văn hóa, tư tưởng, tôn giáo, cũng như các hoạt động chính trị
và kinh tế giữa các dân tộc trong một khu vực rộng lớn hơn.
Phương pháp sử học như vậy chỉ có thể thành công, trong một mức
độ nào đó, bởi những sử gia có trí năng sắc bén, kho kiến thức thông
bác, và cũng cần một tính năng nhạy cảm để dễ dàng xúc cảm với
những thăng trầm của đất nước và dân tộc. Phương pháp sử học như
vậy hoàn toàn mang tính chủ quan, mặc dù chưa có một sử gia Đông
Tây kim cổ nào đáng được đánh giá là hoàn toàn khách quan.
Thực sự, qua danh sách các sáng tác của Phật giáo Việt Nam mà
Thầy Lê Mạnh Thát đã sưu tập được trong khoảng mấy chục năm qua
chúng ta thấy số lượng không phải ít. Từ những cái đang có, suy diễn
về những cái đã mất, văn hiến Phật giáo Việt Nam không phải nghèo
nàn như nhiều trí thức vong bản nhận xét.
Cũng bằng một phương pháp luận như vừa nêu, người ta tất
phải thấy rõ ý đồ của Cao Biền, trong chính sách lâu dài tiêu diệt và
đồng hóa được liên tiếp thi hành qua nhiều triều đại của Nhà nước
Trung Hoa phong kiến. Rồi đối chiếu những gì Cao Biền đã làm như
được ghi chép trong chính sử Việt Nam và Trung Quốc, với phản ứng
của các Thiền sư cố khôi phục lại những mất mát cho dân tộc và đất
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nước mà Cao Biền đã thực hiện, như được ghi chép trong Thiền Uyển
Tập Anh; qua đối chiếu này, chúng ta có thể thấy mức độ tàn phá các
di sản tinh thần cũng như vật chất trong những cuộc chiến tranh xâm
lược từ phương Bắc.
Còn một câu hỏi khác mà chúng ta chưa thể trả lời: "Trong lịch
sử quá khứ, trình độ phát triển của Cao-Miên, và của Nam Dương,
không cao hơn Việt Nam, nhưng Angkor Wat và Baraboudur là
những công trình quy mô, mà khi đối chiếu khiến cho Việt Nam trở
thành nhược tiểu so với Trung Quốc, và tụt hậu so với các nước láng
giềng". Thực tế, phải trên một cơ sở nhân bản mới có thể thẩm định
giá trị trình độ phát triển của Việt Nam hay các trường hợp tương tự.
Không thể hoàn toàn chỉ dựa vào các tiêu chuẩn thành tựu vật chất.
Chúng ta nói giá trị nhân bản, là muốn nói đến mối quan hệ xã hội
của con người. Trong đó, nhân phẩm của người khác được tôn trọng,
và hạnh phúc hay an nguy của người khác được bảo đảm. Tất cả mối
quan hệ này được nâng lên hàng văn hiến, nghĩa là được tất cả thành
viên của cộng đồng thừa nhận như là khế ước xã hội mà mỗi thành
viên có nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là sự phát triển của khung hình
lý tính phổ quát, luôn luôn yêu cầu sự tương thích với tình cảm cá
biệt đặc thù.
Thành ngữ Việt Nam có câu, "phép vua thua lệ làng", nó không
có nghĩa mỗi làng xã là một lãnh địa tự quản của dân xã. Ý nghĩa của
nó là nêu lên sự điều hoà mâu thuẫn giữa lý tính phổ quát và tình cảm
đặc thù, không vì quyền lợi của cộng đồng mà nhân phẩm của cá
nhân bị tước đoạt; cũng không vì quyền lợi của cá nhân mà sự an
nguy của cộng đồng bị đe dọa. Do đó, không phải ỷ mình là vua, là
chủ nhân của đất nước, mà quân chủ có quyền sống xa hoa vượt trên
khả năng mà thần dân có thể cống hiến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét