Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản - thực trạng và tiềm năng

\
trọng quyết định các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Chức năng thực
hiện của thị trường thể hiện ở chỗ, thị trường thực hiện hành vi trao đổi , thực hiện
cân bằng cung cầu từng loại sản phẩm hàng hoá, hình thành giá cả và thực hiện giá
trị của các sản phẩm hàng hoá.
 Chức năng điều tiết kích thích.
Nhu cầu thị trường là mục đích đáp ứng của mọi quá trình hoạt động sản
xuất – kinh doanh. Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy các chủ
thể kinh tế. Đây chính là cơ sơ khách quan để thực hiện chức năng điều tiết kích
thích của thị trường. Thực hiện chức năng này, thị trường có vai trò quan trọng
trong việc phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực khan hiếm của đất nước cho
quá trình sản xuất kinh doanh sản phẩm.
 Chức năng thông tin.
Có nhiều kênh thông tin kinh tế, trong đó thông tin thị trường là rất quan
trọng. Chức năng thông tin thị trường bao gồm: Tổng cung, tổng cầu hàng hoá,
dịch vụ, cơ cấu cung cầu các loại sản phẩm hàng hoá trên thị trường, chất lượng,
giá cả hàng hoá, thậm chí cả thị hiếu, cách thức, phong tục tiêu dùng của người
dân Những thông tin thị trường chính xác là cơ sở quan trọng cho việc ra các
quyết định.
Các chức năng trên của thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, làm cho
thị trường thể hiện đầy đủ vai trò bản chất của mình. Chức năng thừa nhận là quan
trọng nhất, có tính quyết định. Chừng nào chức năng này được thực hiện thì các
chức năng khác mới phát huy tác dụng. Nếu chức năng thừa nhận đã được thực
hiện mà các chức năng khác không thể hiện ra thì chắc chắn đã có những yếu tố
phi kinh tế nào đó can thiệp vào thị trường làm cho nó biến dạng đi.
3- Vai trò của thị trường.
Thị trường có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh
tế thị trường . Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá và dịch vụ thông qua các
quy luật của kinh tế hàng hoá, do đó nó là điều kiện cần và buộc phải có để kết
thúc một chu trình sản xuất kinh doanh, thực hiện lợi nhuận cho nhà đầu tư. Thông
qua thị trường, tất cả các chủ thể kinh tế đều có thể tự do mua những gì mình cần,
bán những gì khách hàng muốn cũng như mình có thể đáp ứng, nhằm thu lợi
Trang 5
\
nhuận. Giá cả thị trường được xác định bởi sự cân bằng cung – cầu, do đó bí quyết
để thành công trong kinh doanh là phải làm sao chiếm được lòng tin của khách
hàng, mở rộng thị trường, thị phần cho sản phẩm của mình. Ngoài vai trò thực hiện
lợi nhuận cho người kinh doanh, thị trường còn có vai trò trong việc phân bổ
những nguồn lực khan hiếm đều cho các ngành, các lĩnh vực và các chủ thể kinh tế
thông qua giá cả thị trường.
Qua những vai trò trên, hơn ai hết những người làm kinh tế và những
người nghiên cứu kinh tế phải đánh giá đúng tầm quan trọng của thị trường, từ đó
có những giải pháp để tìm kiếm và phát triển thị trường cho sản phẩm của mình
một cách phù hợp. Nắm được bí quyết để tiêu thụ tốt, nhiều sản phẩm trên thị
trường là một trong những thành công lớn mà bất cứ người làm kinh tế nào cũng
mong đạt được. Nhưng để đạt được thành công đó không phải là vấn đề đơn giản,
mà là cả một quá trình nghiên cứu, tìm tòi cũng như chấp nhận mạo hiểm, rủi ro
trong kinh doanh do chính thị trường mang lại.
Việt Nam, từ khi xác định phát triển nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường
lấy việc tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật làm nền tảng, đã đưa nền kinh
tế nước ta tiến được một bước tiến đáng kể so với cơ chế kế hoạch hóa tập trung
trước đây. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
tất cả các thành viên trong xã hội có đủ điều kiện kinh doanh theo luật doanh
nghiệp Việt Nam đều được kinh doanh các mặt hàng mà nhà nước không cấm. Các
thông tin thị trường luôn là những thông tin mở, nắm bắt nó một cách nhanh
chóng, nhạy cảm sẽ đem lại những thành công lớn cho người làm kinh tế, qua đó
góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, rút ngắn khoảng
cách với các nước công nghiệp hiện đại trên thế giới.
CHƯƠNG II
CƠ CẤU, CHỨC NĂNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ
SẢN
I- CƠ CẤU, CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN.
Trang 6
\
Cũng giống như cơ cấu của thị trường, cơ cấu của thị trường thuỷ sản gồm
các nhóm chủ thể kinh tế với những chức năng nhất định có mối liên hệ với nhau
thông qua hệ thống dây chuyền Marketinh:
Người sản xuất - Người bán buôn - Người chế biến - Người bán lẻ - Người
tiêu dùng.
Mỗi mắt xích hay mỗi nhóm chủ thể kinh tế trong hệ thống dây chuyền
Marketinh trên có một chức năng riêng trong hệ thống chức năng chung của thị
trường:
• Người sản xuất.
Người sản xuất sản phẩm thuỷ sản là những người làm công việc đánh bắt cá,
tôm, hải sản các loại từ môi trường nội đồng, biển khơi và cả nhóm người nuôi
trồng hải sản để kinh doanh. Người sản xuất thuỷ sản có thể là những doanh
nghiệp lớn với những hạm tầu khai thác cá ở ngoài biển khơi, có thể là trang trại
gia đình nuôi trồng thuỷ sản và cũng có thể là những hộ gia đình cá thể đánh bắt và
nuôi trồng thủy sản nhỏ lẻ Những người này có chức năng cung cấp sản phẩm
thuỷ, hải sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
• Người bán buôn.
Người bán buôn sản phẩm thuỷ sản có thể là các doanh nghiệp thương mại,
các hộ gia đình và các chủ thể nhỏ lẻ Những người này đảm nhiệm công việc thu
gom sản phẩm thuỷ sản từ các ngư trường hoặc các đơn vị kinh doanh nhỏ lẻ trong
cả nước để cung cấp trực tiếp cho các đơn vị chế biến hoặc những người bản lẻ ở
các chợ hàng.
• Người chế biến.
Người chế biến thuỷ sản bao gồm các doanh nghiệp, các đơn vị tập thể, các
hộ gia đình cá thể. Họ thực hiện công việc mua gom sản phẩm thuỷ sản sơ chế từ
những người bán buôn, sau đó đem chế biến sản phẩm thuỷ sản này thành những
sản phẩm có tính công nghiệp phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của
con người,
• Người bán lẻ.
Trang 7
\
Người bán lẻ ở đây gồm các đơn vị tập thể, hộ gia đình cá thể có nhiệm vụ
cung cấp hàng tiêu dùng thuỷ sản từ những đơn vị chế biến hoặc các đại lý tới tay
người tiêu dùng cuối cùng.
• Người tiêu dùng.
Người tiêu dùng là tất cả các thành viên trong xã hội có nhu cầu tiêu dùng
sản phẩm thuỷ sản. Họ có trách nhiệm thanh toán tất cả các chi phí từ khi khai
thác, chế biến, lưu thông hay nói khác đi là từ khâu sản xuất tới lúc tiêu dùng.
Các quá trình trên được diễn ra liên tiếp để đảm bảo quá trình sản xuất được
khép kín, đồng vốn được quay vòng nhanh đem lại hiệu quả kinh doanh cho người
sản xuất thuỷ sản. Qua mỗi một mắt xích, sản phẩm thuỷ sản lại được tăng thêm
giá trị cho đến khi tới tay người tiêu dùng cuối cùng nó trở thành một sản phẩm
hoàn hảo, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Mỗi một nhóm chủ
thể kinh tế trong dây chuyền Marketinh trên, tuy có chức năng khác nhau nhưng
chúng có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau, sản phẩm của mắt xích này là
nguyên liệu đầu vào của mắt xích tiếp theo. Vì vậy, tất cả các quá trình lưu thông
hàng hoá qua các mắt xích trong dây chuyền Marketinh có diễn ra thông suốt thì
mới đảm bảo cho thị trường sản phẩm thuỷ sản được ổn định và phát triển,
II- ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN.
Do đặc điểm của sản xuất, chế biến và tiêu dùng hàng thuỷ sản, thị trường
đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản là một thị trường đa cấp. Việc tìm hiểu, phân tích thị
trường sản phẩm đầu ra cho thuỷ sản là phân tích trạng thái cân bằng ở mỗi cấp thị
trường.
Mỗi một loại sản phẩm thuỷ sản ( sản phẩm tươi, sản phẩm chế biến, sản
phẩm khô ) đáp ứng đòi hỏi của thị trường về tất cả các mặt như: thời gian, không
gian, chất lượng, giá cả, số lượng Do vậy, chủ thể kinh tế tham gia trên dây
chuyền marketinh cần bỏ ra những chi phí nhất định để đáp ứng những đòi hỏi nói
trên của thị trường. Những chi phí này sẽ được phản ánh vào giá cả. Khi thị trường
chấp nhận giá, gồm giá sản phẩm thuỷ sản thô cộng với chi phí chế biến, chi phí
marketinh thì chênh lệch giữa giá đó với giá ở cấp thị trường trước đó được gọi là
độ cận biên thị trường.Từ những lý luận trên, để thấy được trạng thái cân bằng của
Trang 8
\
mỗi cấp thị trường, ta đi tìm hiểu về độ cận biên thị trường qua giá cả của sản
phẩm.
1- Độ cận biên thị trường và giá cả sản phẩm thuỷ sản.
Độ cận biên thị trường sản phẩm thuỷ sản là một khái niệm thể hiện giá trị
dôi ra ở mỗi mắt xích nào đó trên dây chuyền marketinh sản phẩm. Chẳng hạn,
người ta xem xét độ cận biên giá bán lẻ và giá bán buôn hoặc độ cận biên giữa giá
bán buôn và giá bán lẻ . Như vậy là người ta có thể xem xét độ cận biên thị trường
sản phẩm thuỷ sản giữa bất kỳ hai cấp thị trường nào đã định giá.
Chúng ta tiếp cận ở phía người tiêu dùng thủy sản từ hai khía cạnh của quá
trình.
Thứ nhất là với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế nói chung và
của ngành thuỷ sản nói riêng, người tiêu dùng các lượng sản phẩm thuỷ sản chế
biến chưa nhiều, nhưng ở nông thôn người nông dân sử dụng sản phẩm thuỷ sản
thô do mình tự đánh bắt hoặc nuôi trồng lấy nhiều hơn, còn ở thành phố thì người
tiêu dùng các sản phẩm đã qua chế biến với số lượng lớn hơn. Điều đó chỉ ra rằng
những người tiêu dùng khác nhau có những nhu cầu khác nhau về qui cách, mức
chất lượng và dịch vụ cung cấp hàng hoá khác nhau.
Thứ hai là xét về lâu dài, khi thu nhập và mức sống tăng lên cùng với sự
phát triển cao hơn của nền kinh tế, nhu cầu của người tiêu dùng ở cả thành thị và
nông thôn đều tăng lên đối với các dịch vụ làm tăng giá trị của sản phẩm thuỷ sản.
Kết quả là trong cơ cấu giá mua hàng thuỷ sản của người tiêu dùng, phần trả cho
cho các dịch vụ có chiều hướng tăng lên, còn trả cho sản phẩm thô, sơ chế có chiều
hướng giảm xuống. Cùng với sự phát triển kinh tế, độ cận biên thị trường sẽ tăng
lên. Độ cận biên thị trường giữa giá bán lẻ và giá tại các cơ sơ đánh bắt ( ngư
trường, trang trại nuôi cá, hộ gia đình ) là sự chênh lệch giữa giá bán lẻ cuối cùng
cho người tiêu dùng cuối cùng và giá mà người sản xuất thuỷ sản nhận được khi
bán sản phẩm thuỷ sản sơ chế.
Có thể coi nhu cầu ở cấp thị trường bán lẻ bao gồm hai phần: Nhu cầu đối
với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến và nhu cầu đối với một loạt các dịch vụ.
Nhu cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến gọi là nhu cầu phái sinh,
xuất phát từ nhu cầu ban đầu ở cấp bán lẻ có kết hợp cả sản phẩm thuỷ sản thô và
Trang 9
\
dịch vụ. Đường cầu này được tạo ra khi đem mỗi điểm trên đường cầu ban đầu trừ
đi giá trị về các dịch vụ. Tương tự như vậy, đường cung phái sinh cũng được tạo ra
khi đem các giá trị trên đường cung ban đầu cộng với các giá trị về các dịch vụ mà
người tiêu dùng yêu cầu đối với người sản xuất. Giao điểm của các đường cung và
cầu này sẽ tạo nên giá cả của sản phẩm thuỷ sản trên thị trường.
Khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho độ thoả dụng mà hệ thống thị
trường tạo ra về thời gian, không gian, hình thức sản phẩm thì ở đây độ cận biên
thị trường phản ánh mức chuẩn bị đầy đủ thoả dụng đó cho người tiêu dùng. Mức
độ và các loại chi phí cho sự “ chuẩn bị “ này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ
cung cầu trên thị trường
Muốn phân tích đầy đủ và cụ thể ta phải đi xét hai trường hợp cụ thể đó là:
Trường hợp độ cận biên thị trường không thay đổi ( trong thời gian ngắn)
và trường hợp độ cận biên thị trường thay đổi ( xét trong khoảng thời gian dài).
2- Sự hình thành giá cả theo thời vụ.
Ngành nông nghiệp nói chung và thuỷ sản nói riêng là một ngành sản xuất vật
chất có nhiều đặc điểm riêng, trong đó tình thời vụ khá cao là nét đặc trưng nhất.
Tình thời vụ của sản xuất thuỷ sản thể hiện rõ ở sự biến động của giá cả thị trường
theo thời vụ, đặc biệt là tính không ổn định của giá cả thị trường đầu ra. ở đây,
việc phân tích thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản tập trung vào sự hình thành
giá cả thị trường theo thời gian.
Do đặc của ngành thuỷ sản, việc sản xuất kinh doanh phải dựa trên các qui
luật sinh học động thực vật thuỷ sinh nên tính mùa vụ của ngành thuỷ sản là khá
cao. Vào đúng mùa vụ, người sản xuất cung ứng sản phẩm theo nhu cầu của người
tiêu dùng và do đó giá cả được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu. Nhưng vào
lúc trái vụ, trong khi nhu cầu của người tiêu dùng là không thay đổi thì người sản
xuất lại không có sản phẩm để bán hoặc do chi phí để dự trữ sản phẩm thuỷ sản là
quá lớn làm cho giá cả của sản phẩm trên thị trường tăng lên, và ta dễ dàng nhận
thấy là mức tăng lên của giá phải lớn hơn chi phí mà người cung ứng bỏ ra để dự
trữ sản phẩm( ở đây ta phải hiểu là sản phẩm thuỷ sản rất khó dự trữ vì đặc tính
mau ươn, chóng hỏng của nó )
Trang 10
\
Qua những phân tích trên ta thấy rằng tính mùa vụ trong sản xuất thuỷ sản đã
làm cho giá cả của sản phẩm thuỷ sản thay đổi rất lớn theo thời gian. Người sản
xuất, cung ứng sản phẩm cần nắm rõ đặc điểm này để có chiến lược kinh doanh
phù hợp sao cho mức lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của mình là lớn nhất.
3- Tính độc quyền của thị trường thuỷ sản.
Trên thị trường thuỷ sản ta thấy thường chỉ tồn tại dạng độc quyền nhất thời.
Tính chất độc quyền này do trình độ sản xuất của ngành thuỷ sản chưa cao mang
lại,thêm vào đó ngành thuỷ sản lại là ngành sản xuất phân tán ở nhiều vùng trên cả
nước dẫn tới tình trạng độc quyền nhất thời là không tránh khỏi.
Ta hiểu, độc quyền nhất thời trên thị trường thuỷ sản như sau: Với một hệ
thống các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố ở khắp nơi trên cả nước, trong khi đó
trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành thuỷ sản nói riêng cón
thấp dẫn tới trang thiết bị vận chuyển, cơ sở chế biến còn thiếu thốn lạc hậu, cả
một vùng rộng lớn sản xuất và đánh bắt mới có một cơ sở mua gom, chế biến.
Điều này dẫn tới sự độc quyền trong mua gom sản phẩm và phân phối các sản
phẩm chế biến của các cơ sơ nói trên. Tuy nhiên, đây chỉ là tình trạng độc quyền
nhất thời, khi trình độ phát triển của nền kinh tế cao hơn, sự trang bị cho ngành
thuỷ sản hiện đại hơn, trình độ sản xuất, đánh bắt cũng như chế biến của ngành
thuỷ sản ở mức độ hiện đại hơn, các cơ sở mua gom được xây dựng nhiều hơn thì
tình trạng độc quyền này sẽ mất đi và như vậy việc ép giá của người mua với
người sản xuất, nuôi trồng sẽ không còn nữa, tiến tới một thị trường cạnh tranh
hoàn hoả cho sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam.
4- Thị trường sản phẩm trong nước còn mang tính nhỏ, lẻ.
Với vị thế của hệ thống bờ biển và sông ngòi, ao hồ của Việt Nam dẫn tới
các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố rộng khắp trên cả nước. Trình độ phát triển
của ngành thuỷ sản chưa cao làm cho hệ thống thị trường sản phẩm thuỷ sản cũng
phân bố rộng khắp trên cả nước với tính chất là nhỏ và lẻ. Ở trong nước, sản phẩm
thuỷ sản được bán chủ yếu tại các chợ ở các địa phương với quy mô không lớn.
Các khu chế biến cung ứng sản phẩm thuỷ sản lớn chưa được hình thành hoặc
đang manh nha, không đáng kể. Do vậy, hình thành nên một mạng lưới hệ thống
thị trường nhỏ và lẻ phân bố rộng trên các vùng trong cả nước.
Trang 11
\
Trang 12
\
CHƯƠNG III
THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM THUỶ SẢN
THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG
I- THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA.
1- Cung - cầu và giá của các sản phẩm thuỷ sản trong nước.
Trong một vài năm gần đây, ngành thuỷ sản Việt Nam phát triển rất mạnh
vươn lên là một ngành lớn trong hệ thống kinh tế của cả nước. Năm 2000,tỷ trọng
xuất khẩu thuỷ sản đạt 1.4 tỷ USD chiếm tỷ trọng gần 10% kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Đến năm 2003,ngành thuỷ sản quyết tâm đạt chỉ tiêu 2.3 tỷ USD đưa
Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu thuỷ sản.
Tuy vậy, có một thực trạng đặt ra là ngành thuỷ sản đã quá chú trọng tới xuất
khẩu, trong khi đó theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia của FAO tiến hành tại
Việt Nam từ cuối 2001 đến nay, thông qua 85 cuộc phỏng vấn và 2000 cuộc điều
tra mẫu với các đối tượng người tiêu dùng khác nhau ở 12 tỉnh, thành của cả ba
miền thì có tới 70% lượng thuỷ sản hàng năm được tiêu thụ tại thị trường nội địa.
Như vậy, có thể khẳng định thị trường trong nước cho sản phẩm thuỷ sản là rất
lớn, cần được chú trọng phát triển.
Vì là nghiên cứu nhấn mạnh vào thị trường trong nước nên người ta đặc biệt
quan tâm đến các vấn đề vốn dĩ còn yếu kém của Việt Nam như cách tiếp cận thị
trường ở ngay tại vùng nuôi, cảng cá cũng như nhu cầu và tiêu thụ các sản phẩm
thuỷ sản ở cấp độ người tiêu dùng liên quan đến các hoạt động của người bán sỉ, lẻ
và các cơ sở chế biến. Tính đến năm 2002, tổng số dân cả nước khoảng 80 triệu(17
triệu hộ gia đình), trong đó có khoảng 62.315 triệu người ( chiếm 77%) đang sống
ở vùng nông thôn, cho thấy phần lớn người tiêu dùng trong nước hiện đang sống ở
vùng nông thôn. Về mặt dân tộc, tôn giáo không thấy có rào cản hoặc hạn chế nào
đối với người tiêu thụ thuỷ sản vì phần lớn dân cư thuộc dân tộc Kinh và theo đạo
Phật hoặc các tôn giáo khác. Tất cả những khía cạnh này tạo ra cơ sở có lợi cho
tiêu thụ thuỷ sản trong người tiêu dùng nội địa dựa vào nghề nghiệp và thu nhập
Trang 13
\
của người dân, đặc biệt là phải ưu tiên cho chiến lược phát triển thị trường vào
người tiêu dùng ở đô thị và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ.
Xét về hành vi tiêu thụ thuỷ sản của người tiêu dùng dựa vào thói quen ăn
uống thì hộ gia đình được coi là đơn vị tiêu dùng cơ bản, hầu hết các thành viên
trong gia đình ăn tại nhà(95% thành viên có mặt trong bữa tối) do đó thường thấy
hành vi tiêu thụ thuỷ sản trong mô hình tiêu thụ hộ gia đình. Ngoài ra có tới 34.4%
số người ăn ở các hàng ăn bình dân. Từ đấy cho thấy rằng, sản phẩm thuỷ sản
được chấp nhận rộng rãi trong người tiêu dùng. Có tới 79.7% số người rất thích ăn
cá và không có sự khác biệt về vùng, miền nơi họ đang sống, chỉ có một số rất ít
nói rằng họ không thích.
Vậy mô hình tiêu thụ thuỷ sản nào là phù hợp với người tiêu dùng trong
nước? Về tần suất mua hàng, trong một gia đình người phụ nữ thường đảm trách
vai trò này ( 83.8%). Cứ hai ngày người ta đi mua thuỷ sản một lần, mỗi lần mua
khoảng chừng 1kg, ở thành thị người tiêu dùng sẵn sàng bỏ trung bình 20 ngàn
đồng/lần còn ở khu vực cận đô thị và nông thôn các con số tương ứng là 15 và 10
ngàn đồng/lần. Nói tóm lại, hiện nay mức tiêu dùng thuỷ sản đủ lớn trong các hộ
gia đình, tuy nhiên có hạn chế là đa số thuỷ sản tiêu dùng có trọng lượng dưới 1
kg.
Nhu cầu tiêu dùng hàng thuỷ sản trong nước là lớn như vậy, song phần lớn là
chưa được đáp ứng hoặc đáp ứng không đầy đủ, nếu biết khai thác tiềm năng về
thị trường trong nước sẽ còn lớn hơn rất nhiều. Ở nông thôn, ngoài sản phẩm thuỷ
sản do người nông dân tự đánh bắt được qua hệ thống sông ngòi , ao hồ tự nhiên
thì nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản ngon cũng khá lớn nhất là trong điều kiện hiện nay,
do việc đánh bắt bừa bãi, không khoa học đã làm cho lượng cá, tôm ở các dòng
sông lâm vào tình trạng cạn kiệt.
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, ở các tỉnh phía Bắc pha trộn tính
ôn đới. Đặc điểm này tạo cho ngành thuỷ sản một số thuận lợi đó là: sự phong phú
về giống loài sản phẩm dẫn tới sự đa dạng trong các mặt hàng thuỷ sản đặc biệt là
các loài có giá trị kinh tế và xuất khẩu; việc nuôi trồng thuỷ sản diễn ra quanh năm
làm cho thị trường thuỷ sản luôn phong phú.
Một số loại sản phẩm thuỷ sản nội đồng được ưa chuộng trên thị trường như:
Trang 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét