5
đến những thành công; ngợc lại, một quyết định sai lầm sẽ dẫn tới những hậu quả xấu,
những thất bại. Để ra đợc những quyết định sáng suốt thì một nguồn thông tin bảo đảm,
đáng tin cậy và kịp thời là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên khi xã hội ngày càng trở nên phức
tạp thì khả năng thông tin kém tin cậy đợc cung cấp cho những ngời ra quyết định ngày
càng tăng thêm. Có nhiều nguyên nhân gây ra những rủi ro thông tin này nh: sự cách trở
của thông tin, thành kiến và động cơ của ngời cung cấp, do dữ kiện quá nhiều, do nghiệp
vụ kinh tế phức tạp
Để giảm thiểu rủi ro thông tin này, ngời sử dụng thông tin có thể kiểm tra thông tin
bằng cách đến trực tiếp doanh nghiệp để xem xét sổ sách và thu thập thông tin về độ tin
cậy của các báo cáo. Thông thờng, điều này không thực tế vì tốn kém. Ngoài ra, sẽ không
có hiệu quả kinh tế nếu mọi ngời sử dụng đều tự mình kiểm tra thông tin.
Một cách khác nữa mà ngời sử dụng thông tin có thể sử dụng là chia sẻ rủi ro thông
tin cùng với Ban quản trị doanh nghiệp. Ban quản trị có trách nhiệm cung cấp thông tin
đáng tin cậy cho ngời sử dụng. Nếu ngời sử dụng dựa trên các Báo cáo tài chính không
chính xác và điều này dẫn tới những thiệt hại về mặt tài chính thì ngời sử dụng có căn cứ
để kiện Ban quản trị.
Điều trở ngại trong việc ngời sử dụng chia xẻ rủi ro thông tin với Ban quản trị là họ
có khả năng không thu hồi đợc khoản lỗ. Nếu một công ty không có khả năng thanh toán
nợ vì bị phá sản thì không chắc rằng Ban quản trị sẽ có đủ tiền để thanh toán cho ngời sử
dụng.
Cách hiệu quả nhất trong trờng hợp này để hạn chế rủi ro thông tin là sử dụng các
Báo cáo tài chính đã đợc kiểm toán. Các kiểm toán viên sẽ tiến hành các cuộc kiểm toán
để thu thập và đánh giá các bằng chứng nhằm đảm bảo rằng các thông tin trên Báo cáo tài
chính là trung thực và hợp lý xét trên các khía cạnh trọng yếu. Thông tin đã kiểm toán sau
đó sẽ đợc sử dụng trong quá trình ra quyết định với giả định là thông tin tơng đối đầy đủ,
chính xác và vô t. Không những thế, nếu có các kiểm toán viên tiến hành kiểm tra thông
tin sẽ tiết kiệm hơn việc những ngời cá biệt sử dụng thông tin tự mình kiểm tra.
Xã hội ngày càng phức tạp thì sự tin cậy vào kiểm toán viên để làm giảm rủi ro thông
tin càng tăng. Trong nền kinh tế thị trờng hiện nay, vai trò đó của kiểm toán viên ngày
càng quan trọng. Nó góp phần làm lành mạnh hoá nền tài chính, nâng cao tính minh bạch
của các thông tin tài chính, từ đó nâng cao hiệu lực của quản lý nói riêng và góp phần vào
sự phát triển chung của nền kinh tế.
3. Yêu cầu đối với kiểm toán viên
Kiểm toán viên làm công việc là kiểm tra độc lập, bày tỏ ý kiến về các thông tin
trình bày trên Báo cáo tài chính. Đây là một lĩnh vực khoa học chuyên môn có phạm vi
rộng, đòi hỏi ngời làm kiểm toán có một trình độ chuyên môn nhất định. Có nh vậy,
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
6
kiểm toán viên mới có thể đa ra đuợc những ý kiến kiểm toán đúng đắn hữu ích trong
việc ra quyết định của ngời sử dụng Báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, có thể thấy kiểm
toán là một lĩnh vực hoạt động mang tính chủ quan, bởi căn cứ vào các bằng chứng thu
thập đợc, kiểm toán viên dựa trên các kinh nghiệm và óc xét đoán nghề nghiệp của
mình để đa ra ý kiến về các thông tin trình bày trên Báo cáo tài chính. Chất lợng của
một cuộc kiểm toán sẽ có ảnh hởng lớn đến những ngời sử dụng kết quả kiểm toán
(Báo cáo tài chính đã kiểm toán) trong việc ra quyết định tài chính, trong khi những
ngời sử dụng Báo cáo tài chính thông thờng không thể đánh giá đợc công việc kiểm
toán (do tính chất phức tạp của chuyên môn); cũng nh một bệnh nhân không thể đánh
giá liệu cuộc giải phẫu có đợc tiến hành đúng đắn không, liệu bác sĩ đã có chuyên môn
tốt hay không, liệu bác sĩ đã cố gắng hết mức có thể cha. Những ngời sử dụng Báo cáo
tài chính đã kiểm toán không thể đánh giá đợc trình độ của kiểm toán viên, thái độ làm
việc cũng nh ý thức của kiểm toán viên khi thực hiện cuộc kiểm toán, họ không thể
đánh giá chính xác liệu ý kiến của kiểm toán viên về Báo cáo tài chính nh vậy có
khách quan hay không Nếu những ngời sử dụng dịch vụ kiểm toán không tin tởng
vào kiểm toán viên thì khả năng phục vụ khách hàng và công chúng một cách hiệu quả
của các công ty kiểm toán sẽ bị giảm bớt. Bởi vậy ở mỗi quốc gia đều có những yêu
cầu đối với những ngời làm nghề kiểm toán cả về trình độ chuyên môn và đạo đức
nghề nghiệp.
3.1. Yêu cầu về trình độ chuyên môn đối với kiểm toán viên
Năng lực chuyên môn là nhân tố quan trọng đối với kiểm toán viên. Năng lực
chuyên môn cao hay thấp sẽ ảnh hởng rất lớn đến chất lợng của cuộc kiểm toán, bởi nó
ảnh hởng đến khả năng của kiểm toán viên trong việc đánh giá tính trung thực hợp lý
của các thông tin trên Báo cáo tài chính, phát hiện ra các sai phạm và đa ra ý kiến kiểm
toán hợp lý.
Năng lực chuyên môn đòi hỏi kiểm toán viên phải đạt đợc trình độ chuyên môn
nhất định. Cụ thể, kiểm toán viên phải có kiến thức kinh tế, tài chính, kế toán và kiểm
toán tơng đối rộng. Cùng với đó, kiểm toán viên cũng cần có kiến thức pháp luật nói
chung, đặc biệt pháp luật về tài chính, kế toán, kiểm toán. Để đạt đợc điều đó, kiểm
toán viên phải có bằng cấp xác nhận trình độ đợc đào tạo nh: trung cấp, cao đẳng, đại
học, thạc sỹ, tiến sỹ về kinh tế, tài chính, ngân hàng hoặc kế toán, kiểm toán
Trình độ chuyên môn có thể còn yêu cầu về kinh nghiệm làm việc (thời gian
thực tế hành nghề). Khi đã đạt đợc trình độ chuyên môn, kiểm toán viên phải giữ vững
đợc trình độ chuyên môn bằng cách liên tục cập nhật những thay đổi trong lĩnh vực kế
toán, kiểm toán, tài chính kể cả những công bố quốc gia và quốc tế, các quy định phù
hợp và các yêu cầu khác của luật pháp. Kiểm toán viên phải tuân thủ ít nhất là chơng
trình cập nhật kiến thức hàng năm theo luật định để đảm bảo kiểm soát chất lợng trong
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
7
hoạt động cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, nhất quán với công bố quốc gia và quốc tế
phù hợp.
Trong điều kiện nền kinh tế tài chính thế giới ngày càng quốc tế hóa sâu rộng,
kiểm toán viên cần phải thông thạo ngoại ngữ để có thể trao đổi với khách hàng để
công việc kiểm toán có thể diễn ra thuận lợi và các báo cáo kiểm toán có giá trị quốc
tế. Không những thế, có ngoại ngữ thành thạo cũng là điều kiện thuận lợi để các kiểm
toán viên có thể học tập, nâng cao trình độ thông qua việc nghiên cứu các tài liệu của
nớc ngoài cũng nh tham gia các khóa học trong và ngoài nớc.
Các kiểm toán viên cũng cần biết sử dụng các công cụ tin học trong kiểm toán.
Hiện nay, trong thời đại mà công nghệ thông tin đang đợc ứng dụng một cách rộng rãi,
việc sử dụng kế toán máy đã trở nên phổ biến, do vậy các kiểm toán viên cần phải có
kiến thức về tin học để hỗ trợ cho công việc của mình. Cùng với đó, ở một số các công
ty kiểm toán đã có các phần mềm kiểm toán nh phần mềm AS/2 của Công ty kiểm toán Việt
Nam (VACO) hỗ trợ đắc lực cho các kiểm toán viên trong việc chọn mẫu kiểm toán, thực hiện
các phân tích Vì vậy kiến thức tin học là một điều rất cần thiết đối với các kiểm toán
viên.
Năng lực chuyên môn ở đây còn bao gồm cả khả năng giao tiếp. Trong cuộc sống
hàng ngày, dù ở bất cứ nghề nghiệp nào, con ngời luôn cần phải giao tiếp với nhau.
Giao tiếp tốt sẽ giúp cho chúng ta tránh đợc hiểu lầm với ngời đối thoại và để lại những
ấn tợng tốt đẹp. Với một nghề nghiệp cần tiếp xúc nhiều với các khách hàng nh kiểm
toán thì một khả năng giao tiếp tốt càng quan trọng, không những thế nó còn cần phải
đợc nâng lên thành một nghệ thuật. Có đợc một nghệ thuật giao tiếp tốt, kiểm toán viên
sẽ tránh đợc những hiểu lầm, tạo thuận lợi trong việc thu thập các số liệu làm bằng
chứng kiểm toán và nhất là có thể duy trì một mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài giữa công
ty kiểm toán và khách hàng kiểm toán.
Cũng chính từ tầm quan trọng của năng lực chuyên môn đối với kiểm toán viên
nh vậy, hầu hết các công ty kiểm toán đều có những chính sách cụ thể cho việc tuyển
nhân viên, đào tạo chuyên môn và các tiêu chuẩn về cơ hội thăng tiến đối với các kiểm
toán viên cũng nh các nhân viên khác trong công ty nhằm không ngừng nâng cao trình
độ chuyên môn, kinh nghiệm hành nghề của kiểm toán viên, nâng cao chất lợng và uy
tín của công ty kiểm toán.
3.2. Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là một yêu cầu không thể thiếu đối với các kiểm
toán viên trong việc đa ra các ý kiến kiểm toán hợp lý tạo niềm tin cho những ngời sử
dụng Báo cáo tài chính. Song kiểm toán là một lĩnh vực hoạt động mang tính chủ quan,
bởi căn cứ vào các bằng chứng thu thập đợc, kiểm toán viên dựa trên các kinh nghiệm
và óc xét đoán nghề nghiệp của mình để đa ra ý kiến về các thông tin trình bày trên
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
8
Báo cáo tài chính, bởi vậy chỉ có một trình độ chuyên môn nghiệp vụ thôi là cha đủ,
ngời làm kiểm toán còn cần có một cái tâm trong sáng. Chúng ta hẳn vẫn cha quên
chuyện một số cá nhân kiểm toán viên thông đồng với tập đoàn viễn thông Worldcom
ở Mỹ cha lâu và ở nớc ta, mới đây thôi là việc gian lận trong báo cáo tài chính của
Công ty Tiếp thị và Đầu t của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đó chính là
những ví dụ rõ ràng nhất về sự cần thiết của phẩm chất đạo đức nghề nghiệp trong hành
nghề kiểm toán. Để nền kinh tế của chúng ta tăng trởng bền vững, đa đất nớc ta thành
công trên con đờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hơn thế nữa là để các nhà đầu t n-
ớc ngoài tin tởng khi đầu t vào Việt Nam, chúng ta phải xây dựng đợc một nền tài
chính minh bạch, lành mạnh. Điều đó không chỉ cần tài năng mà rất cần cái tâm của
những ngời hành nghề. Rõ ràng, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán
viên là một vấn đề bức thiết cần đợc xem xét.
Chuẩn mực kiểm toán số 200 về Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm
toán Báo cáo tài chính có quy định: Kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc đạo
đức nghề nghiệp kiểm toán nh sau: Độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên
môn và tính thận trọng, tính bí mật, t cách nghề nghiệp, tuân thủ chuẩn mực chuyên
môn.
Theo dự thảo chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán của Bộ Tài
chính, các nguyên tắc cơ bản về đạo đức nghề nghiệp với các kiểm toán viên gồm có:
3.2.1. Tính độc lập:
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Không có tính độc
lập thì chức năng kiểm toán không còn có giá trị trong xã hội. Chuẩn mực Đạo đức
nghề nghiệp kế toán, kiểm toán yêu cầu mọi kiểm toán viên và thành viên nhóm kiểm
toán cung cấp dịch vụ kiểm toán (dịch vụ đảm bảo), công ty kiểm toán phải độc lập với
các khách hàng sử dụng dịch vụ kiểm toán.
Tính độc lập có nghĩa là kiểm toán viên phải hoàn toàn vô t trong việc khảo sát,
đánh giá và đa ra kết luận của mình về Báo cáo tài chính dựa trên cơ sở các bằng chứng
kiểm toán đã thu thập đợc. Một kiểm toán viên không thể xem là độc lập nếu kiểm
toán viên đó là luật s của khách hàng hoặc là chủ một ngân hàng có liên quan đến khách
hàng.
Tính độc lập phải đợc xem nh là một trong những phẩm chất chủ yếu nhất của
kiểm toán viên. Bởi tất cả những ngời sử dụng các báo cáo của kiểm toán viên coi nó
nh một căn cứ về tính trung thực và hợp lý của các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp
để đa ra các quyết định tài chính, họ đều tin tởng vào tính độc lập, vào sự vô t của kiểm
toán viên trong việc đánh giá và đa ra ý kiến về thông tin đợc trình bày trên Báo cáo tài
chính.
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
9
Tính độc lập bao gồm: độc lập về t tởng và độc lập về hình thức. Độc lập về t tởng
là trạng thái suy nghĩ cho phép đa ra ý kiến mà không chịu ảnh hởng của những tác
động trái với những đánh giá nghề nghiệp, cho phép một cá nhân hành động một cách
chính trực, khách quan và có sự thận trọng nghề nghiệp. Độc lập về hình thức là không
có các quan hệ thực tế và hoàn cảnh có ảnh hởng đáng kể làm cho bên thứ ba hiểu là
không độc lập, hoặc hiểu là tính chính trực, khách quan và thận trọng nghề nghiệp của
nhân viên công ty hay thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo không đợc duy
trì.
Sự độc lập về t tởng yêu cầu kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán, phải thực
sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm
ảnh hởng đến sự trung thực, khách quan trong việc đa ra ý kiến về Báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên không đợc nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ
kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế nh góp vốn cổ phần, cho vay hoặc vay vốn từ khách
hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp đồng gia công, dịch
vụ, đại lý tiêu thụ hàng hoá Kiểm toán viên không đợc nhận làm kiểm toán ở những
đơn vị mà bản thân có quan hệ họ hàng thân thuộc (nh bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh
chị em ruột) với những ngời trong bộ máy quản lý (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc,
các trởng, phó phòng và những ngời tơng đơng) trong đơn vị đợc kiểm toán. Kiểm toán
viên không đợc vừa làm dịch vụ kế toán (nh trực tiếp ghi chép, giữ sổ kế toán và lập
Báo cáo tài chính) vừa làm dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng.
Tuy nhiên, không chỉ kiểm toán viên giữ thái độ độc lập khi thực thi trách nhiệm
của mình mà còn cả những ngời sử dụng các Báo cáo tài chính phải có niềm tin vào
tính độc lập đó (đó chính là tính độc lập về hình thức trong kiểm toán). Nếu kiểm toán
viên thực sự độc lập nhng ngời sử dụng Báo cáo tài chính lại tin rằng họ là những ngời
bao che, biện hộ cho khách hàng thì phần lớn giá trị của cuộc kiểm toán sẽ không còn
nữa.
Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập thì kiểm toán viên
phải tìm mọi cách loại bỏ sự hạn chế này. Nếu không loại bỏ đợc thì kiểm toán viên
phải nêu rõ điều này trong báo cáo kiểm toán.
3.2.2. Tính chính trực và khách quan
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định chính trực là kiểm toán viên phải thẳng
thắn, trung thực trong t tởng, có chính kiến rõ ràng, đồng thời phải công bằng, tín
nhiệm, không có xung đột về lợi ích. Khách quan là kiểm toán viên phải công bằng,
tôn trọng sự thật và không đợc thành kiến thiên vị.
Ví dụ: Giả sử kiểm toán viên tin rằng tài khoản phải thu có thể không thu hồi đợc
nhng vì một lý do cá nhân nào đó, kiểm toán viên chấp nhận giải trình của Ban Giám
đốc mà không xem xét lại một cách kỹ lỡng, không có sự cân nhắc đánh giá độc lập về
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
10
khả năng thu hồi. Trong trờng hợp này, xét đoán của kiểm toán viên đã bị lệ thuộc, vì
vậy mất khách quan.
Kiểm toán viên không đợc chủ tâm phản ánh sai sự việc, và khi thực hiện hợp
đồng kiểm toán độc lập (kể cả cung cấp dịch vụ kê khai thuế và dịch vụ t vấn cho Ban
quản trị) kiểm toán viên không đợc để sự phán xét của mình bị lệ thuộc vào ngời khác.
Khi thực hiện dịch vụ thuế, kiểm toán viên có thể giải quyết điều nghi ngờ theo hớng
có lợi cho khách hàng khi có sự chứng minh hợp lý đối với quan điểm của kiểm toán
viên.
Trong quá trình tiến hành cuộc kiểm toán, việc lựa chọn và áp dụng các tiêu
chuẩn về đạo đức để đảm bảo nguyên tắc khách quan là rất quan trọng đối với kiểm
toán viên. Một số trờng hợp có thể dẫn đến vi phạm tính khách quan nh: kiểm toán
viên phải chịu áp lực mạnh từ phía cơ quan quản lý, đơn vị cấp trên, Giám đốc, ngời
lãnh đạo đơn vị; hoặc khi có các quan hệ gia đình hay cá nhân. Các mối quan hệ hay
lợi ích có thể có ảnh hởng trái ngợc, làm vi phạm hay đe dọa đến tính chính trực, khách
quan của ngời kiểm toán viên thì cần đợc loại bỏ. Kiểm toán viên cần tránh các mối
quan hệ dẫn đến sự thành kiến, thiên vị hoặc ảnh hởng tới những ngời khác (trong
nhóm kiểm toán) có thể dẫn tới vi phạm tính khách quan. Kiểm toán viên không nên
nhận hoặc tặng quà, chiêu đãi, có thể làm ảnh hởng đáng kể tới các đánh giá nghề
nghiệp hoặc tới những ngời cùng làm việc trong nhóm kiểm toán. Vẫn biết rằng quà
tặng và chiêu đãi là quan hệ tình cảm cần thiết nhng kiểm toán viên nên tránh các trờng
hợp có thể ảnh hởng đến tính chính trực, khách quan, hoặc dẫn đến tai tiếng nghề
nghiệp.
Hành vi cho mợn danh kiểm toán viên hành nghề cũng đợc coi là vi phạm t cách
nghề nghiệp và tính chính trực đợc quy định trong Chuẩn mực Đạo đức nghề nghiệp.
Các kiểm toán viên cũng ý thức rằng, việc cho mợn danh để hành nghề sẽ đem đến
nhiều rủi ro cho kiểm toán viên cho m ợn danh nh: sẽ làm giảm sự tín nhiệm của
kiểm toán viên đối với xã hội nói chung, đối với khách hàng, đồng nghiệp nói riêng.
Ngoài ra, khi sự cố xảy ra, không chỉ riêng công ty kiểm toán, mà cả kiểm toán viên
cho mợn danh cũng phải chịu trách nhiệm trớc pháp luật về các ý kiến của ng ời
mang danh kiểm toán viên trên các báo cáo kiểm toán có vấn đề.
3.2.3. Tính thận trọng
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên
môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên cần. Kiểm toán
viên có nhiệm vụ duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn,
trong môi trờng pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc.
Kiểm toán viên không đợc thể hiện là có những kinh nghiệm và khả năng mà bản
thân không có. Theo đó, tuy Chuẩn mực cha quy định cụ thể, nhng nhìn chung, kiểm
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
11
toán viên chỉ nên nhận thực hiện những hợp đồng mà anh ta hoặc công ty anh ta dự
kiến có đủ năng lực, nghiệp vụ để hoàn thành.
Sự thận trọng thể hiện trong việc lập kế hoạch và giám sát một cách đầy đủ hợp
đồng; thu thập số liệu thích hợp để đủ làm căn cứ hợp lý cho các kết luận hoặc kiến
nghị liên quan tới hợp đồng; và đặc biệt là trờng hợp kiểm toán viên không nên sử
dụng tên của mình gắn cho các nghiệp vụ kinh tế tơng lai phát sinh theo cách mà có
thể dẫn đến sự tin tởng là kiểm toán viên đó cam đoan khả năng có thể đạt đợc của dự
án. Để giảm rủi ro kiểm toán, giảm bớt trách nhiệm của kiểm toán viên thì thận trọng
là một nguyên tắc không thể thiếu trong khi hành sự kiểm toán.
3.2.4. Tính bảo mật
Trong quá trình tiến hành cuộc kiểm toán, kiểm toán viên thu đợc một số lợng
đáng kể thông tin bảo mật, gồm cả lơng của các viên chức, quá trình định giá sản
phẩm, các kế hoạch quảng cáo, và số liệu chi phí sản phẩm Nếu kiểm toán viên tiết
lộ những thông tin này cho những ngời ở bên ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty
khách hàng (là những ngời không đợc quyền tiếp cận với các thông tin đó), thì mối
quan hệ giữa kiểm toán viên, công ty kiểm toán với ban giám đốc công ty khách hàng
sẽ bị căng thẳng nghiêm trọng, và trong trờng hợp cực đoan có thể sẽ làm phơng hại
đến công ty khách hàng. Vì những lý do trên, việc cẩn trọng để bảo vệ các bản t liệu
mật của công ty khách hàng là rất quan trọng.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên có nghĩa vụ tôn trọng
nguyên tắc bảo mật các thông tin về khách hàng thu đợc trong quá trình kiểm toán, kể
cả sau khi kết thúc hợp đồng kiểm toán. Trừ khi thông tin cần đợc cung cấp cho cơ
quan chức năng có liên quan hoặc trách nhiệm nghề nghiệp hoặc luật pháp yêu cầu
phải báo cáo, kiểm toán viên không đợc tiết lộ thông tin, không đợc sử dụng các thông
tin này để thu lợi cá nhân hoặc thu lợi cho bên thứ ba. Kiểm toán viên không đợc công
bố thông tin bảo mật về khách hàng kể cả thông tin khác nếu không đợc sự đồng ý của
công ty khách hàng. Nh vậy, kiểm toán viên có thể cung cấp thông tin cho ngời khác
chỉ khi đợc sự cho phép của công ty khách hàng. Đây là một điều kiện bắt buộc, kể cả
trong trờng hợp kiểm toán viên bán kết quả làm việc của mình cho một công ty kiểm
toán khác hoặc muốn cho phép ngời kiểm toán viên kế tục xem xét t liệu lập cho công
ty khách hàng trớc đây.
3.2.5. T cách nghề nghiệp
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên phải trau dồi và bảo
vệ uy tín nghề nghiệp, không đợc gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp.
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
12
Hành vi làm mất tín nhiệm không đợc định nghĩa rõ ràng trong các nguyên tắc
của chuẩn mực, một vài hành vi sau của kiểm toán viên có thể đợc xem là ví dụ (theo
văn bản hớng dẫn thi hành chuẩn mực đạo đức của Viện kiểm toán độc lập Hoa Kỳ):
Kiểm toán viên giữ lại sổ sách của khách hàng sau khi một đòi hỏi không đợc
đáp ứng là một hành vi làm mất tín nhiệm. Ví dụ, giả sử Ban quản trị công ty
khách hàng không trả thù lao cho công ty kiểm toán và do đó các kiểm toán
viên từ chối trả lại sổ sách của khách hàng.
Một công ty kiểm toán phân biệt đối xử giữa các chủng tộc, màu da, tôn giáo,
giới tính, tuổi tác, hoặc quốc tịch cũng đợc xem là một hành vi làm mất tín
nhiệm.
Nếu một kiểm toán viên đồng ý thực hiện kiểm toán ở một cơ quan Nhà nớc, mà
cơ quan này qui định các thể thức kiểm toán khác với các chuẩn mực kiểm toán
đã đợc thừa nhận, thì trách nhiệm đối với uy tín nghề nghiệp thể hiện ở chỗ
kiểm toán viên phải tuân thủ cả các thể thức của cơ quan Nhà nớc đó và các
chuẩn mực kiểm toán đã đợc chấp nhận, trừ khi báo cáo kiểm toán đợc diễn đạt
bằng một cách khác.
Uống rợu quá say, hành động gây mất trật tự, hoặc những hành vi khác mà
nhiều ngời xem là trái với tiêu chuẩn nghề nghiệp không hề cấu thành một hành vi làm
mất tín nhiệm. Những gì cấu thành t cách đạo đức nghề nghiệp tiếp tục là trách nhiệm
của mỗi ngời hành nghề chuyên nghiệp.
3.2.6. Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo những kỹ thuật và
chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kiểm toánViệt Nam (hoặc chuẩn
mực quốc tế đợc Việt Nam chấp nhận) và các quy định pháp luật hiện hành.
II. Cơ sở lý luận về đào tạo kiểm toán viên
1. Mục tiêu đào tạo kiểm toán viên
Đổi mới cơ chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng Xã hội chủ nghĩa
và công cuộc cải cách hành chính vào đầu những năm 1990 đã tạo nên những tiền đề kinh
tế xã hội và những yêu cầu cấp thiết của sự ra đời các tổ chức kiểm toán ở Việt Nam. Sau
hơn 10 năm kể từ khi ra đời, hệ thống kiểm toán bao gồm: Kiểm toán nhà nớc, các Công
ty kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ đã có những bớc phát triển nhất định, dần khẳng
định đợc vai trò của mình phục vụ cho quản lý tài chính vĩ mô và vi mô. Cùng với đó, đội
ngũ kiểm toán viên cũng ngày càng đợc nâng cao cả về số lợng và chất lợng.
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
13
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và việc Việt Nam sắp ra nhập
WTO, đội ngũ kiểm toán viên Việt Nam đang đối diện với nhiều cơ hội, cùng với nó cũng
là rất nhiều thách thức. Các kiểm toán viên Việt Nam sẽ có cơ hội tốt để làm việc và có
thu nhập cao ở nớc ngoài song đồng thời cũng gặp phải những thách thức về cạnh tranh:
Khả năng mất thị phần và bị loại khỏi cuộc chơi nếu không tự đổi mới. Đào tạo kiểm toán
viên cũng đứng trớc thách thức, đó là nguy cơ đào tạo kế toán bậc đại học không đáp ứng
yêu cầu hội nhập và nguy cơ tụt hậu nếu không thừa nhận chức danh CPA và có chiến lợc
tổng thể và đúng đắn về đào tạo CPA ở Việt Nam
Với thực trạng trên, việc nâng cao chất lợng đội ngũ kiểm toán viên phải hớng tới
một số mục tiêu chủ yếu sau:
1.1. Về mặt số lợng
Trong 5 năm tới, số kiểm toán viên sẽ tăng gấp 2 - 2,5 lần so với hiện tại, chủ yếu là
kiểm toán viên nhà nớc và kiểm toán viên độc lập. Cùng với số kiểm toán viên hiện có đợc
đào tạo và đào tạo lại đặt ra nhu cầu đào tạo tơng đối lớn với những cấp độ đào tạo khác
nhau.
1.2. Về cơ cấu
Đội ngũ kiểm toán viên, một mặt cơ cấu kiểm toán viên đợc phân theo chủ thể kiểm
toán (Kiểm toán viên nhà nớc, kiểm toán viên độc lập, kiểm toán viên nội bộ) cần đợc đào
tạo theo những chơng trình có sự phân hóa nhất định. Mặt khác, cùng với sự phát triển của
hoạt động quản lý kinh tế tài chính, chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán viên cũng cần đợc
nâng cao theo hớng chuyên môn hóa theo chuyên ngành kiểm toán (ví dụ kiểm toán doanh
nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thơng mại dịch vụ, kiểm toán đầu t xây dựng cơ bản )
Đồng thời, cần hớng tới đào tạo, bồi dỡng theo từng ngạch bậc kiểm toán viên để đáp
ứng yêu cầu sử dụng của các tổ chức kiểm toán.
1.3. Về mục tiêu đào tạo, bồi dỡng
Cần có sự thay đổi về nhận thức, coi kiểm toán là một nghề nghiệp độc lập tơng đối
trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, kiểm toán viên cần có tiêu chuẩn riêng về nghề
nghiệp (về đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ), trên cơ sở đó xây dựng mục tiêu và chơng
trình đào tạo phù hợp. Về chuyên môn nghiệp vụ, kiểm toán viên cần đợc đào tạo toàn
diện về kiến thức, kỹ năng kiểm toán và các kỹ năng khác trong quá trình hoạt động kiểm
toán một cách toàn diện, đặc biệt là năng lực về công nghệ thông tin và ngoại ngữ.
2. Yêu cầu đào tạo đối với kiểm toán viên
Mục tiêu tổng quát của đào tạo chuyên ngành chuyên ngành Kế toán - Kểm toán ở
bậc đại học trong quá trình hội nhập là đào tạo một đội ngũ cử nhân kế toán - kiểm toán có
chất lợng cao, đủ sức giải quyết các công việc thuộc ngành nghề chuyên môn phục vụ cho
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
14
sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nớc, chủ động và tích cực hội nhập có hiệu
quả vào nền kinh tế thế giới và tạo tiền đề, nền tảng cơ bản cho đào tạo CPA của Việt Nam
theo tiêu chuẩn và chất lợng quốc tế.
Cụ thể, mục tiêu đào tạo kiểm toán bậc đại học là phải tạo ra một đội ngũ cán bộ đạt
đợc các mức độ chất lợng cao của sản phẩm đào tạo, xét trên các khía cạnh và tiêu thức
sau đây:
2.1. Về nội dung kiến thức và trình độ hiểu biết:
Chơng trình đào tạo phải cung cấp cho ngời học các kiến thức tổng hợp, bao gồm:
- Khoa học xã hội
- Khoa học nhân văn
- Về tổ chức và kinh doanh
- Toán và máy tính
- Cơ sở ngành
- Ngoại ngữ (Tiếng Anh)
- Chuyên ngành kế toán và kiểm toán
Nh trên đã phân tích, ngoài kiến thức chuyên môn, các cử nhân kiểm toán còn phải
rất giỏi máy tính và thông thạo tiếng Anh, am hiểu kinh tế cũng nh quản lý các ngành
nghề. Đối với các lĩnh vực chuyên môn, họ phải đợc trang bị các kiến thức hiện đại về các
chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế, các vấn đề lý luận cơ bản về kế toán và kiểm
toán nói chung chứ không đơn thuần là các quy định về chính sách và chế độ nh hiện nay.
2.2. Về kỹ năng nghề nghiệp
Mục tiêu đào tạo phải đảm bảo để ngời học có đợc kỹ năng nghiệp vụ kế toán và
kiểm toán thành thạo ở thứ bậc cao của nội hàm chất lợng đào tạo. Về nguyên tắc, sản
phẩm đào tạo đại học không chỉ có kỹ năng bắt chớc thuần túy hay thao tác một kỹ năng
nào đó theo chỉ dẫn mà còn phải có khả năng chuẩn hóa, phối hợp và cao hơn nữa là kỹ
năng tự động hóa (hoàn thành một hay nhiều kỹ năng một cách dễ dàng và tự nhiên mà
không đòi hỏi một sự gắng sức về thể lực và trí lực)
Cần chú ý là các kỹ năng nói trên phải đặt trong điều kiện ứng dụng rộng rãi các
thành tựu của tin học và công nghệ thông tin.
2.3. Về năng lực nhận thức
Ngời học không chỉ biết, hiểu, vận dụng đơn thuần mà còn có năng lực phân tích
(tách từ tổng thể thành bộ phận và biết rõ sự liên hệ giữa các thành phần đó với nhau theo
cấu trúc của chúng), tổng hợp (biết kết hợp các bộ phận thành một tổng thể mới từ tổng
thể ban đầu), đánh giá (biết so sánh, phê phán, chọn lọc, quyết định và đánh giá trên cơ sở
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét